Thứ Bảy, 6 tháng 1, 2018

TÀI LIỆU THAM KHẢO VỀ DƯỢC LIỆU

(TÀI LIỆU THAM KHẢO)
CAM HÀN, QUÝT NHIỆT, BƯỞI TIÊU
      Có một vài triết lý rất hiển nhiên và đơn giản trong đời thường như:Cam hàn, quýt nhiệt, bưởi tiêu”; “Chết tại cái miệng” “Khiếm khuyết lớn nhất của đời người là kém hiểu biết – Lời dạy thứ 13 trong số 14 lời dạy của Đức Phật”. Nhưng mọi người chúng ta nhận biết được và khắc phục được cũng không hề đơn giản.
          Trước hết nói về:“Cam hàn, quýt nhiệt, bưởi tiêu” là một ví dụ mà nhiều người biết, nhưng lại chưa thấuhiểu nên thường làm sai
          Một chuyện hàng ngày thường xảy ra là, khi đi thăm người ốm, mọi người thường hay mua hoa quả mang vào biếu tại giường bệnh. Thế nhưng vì không rõ tính thực hay của bệnh mà người ốm đang mắc, nên có khi quà cáp lại mang tai họa đến cho họ. Chẳng hạn như người ốm đang mắc chứng , nghĩa là bệnh do hàn (lạnh) gây nên mà biếu cam (hàn) thì bệnh nhân ăn vào chỉ có nặng thêm. Ngược lại khi người bệnh vì nhiệt mà biếu quýt (nhiệt) thì cùng vậy. Riêng Bưởi: tiêu thì không nóng, không mát nên cả 2 trường hợp trên đều dùng được.(nhưng thông thường chẳng ai biếu bưởi cả, đơn giản vì chẳng lẽ lại biếu một quả, mặc dù có giá trị bằng cả một cân cam hoặc quýt).
          Về tác dụng của trái cam,ai cũng nghĩ rằng ăn cam là thơm, mát, bổ. Thậm chí cam còn tốt ở chỗ giúp cơ thể sinh nhiều tân dịch. Thế nhưng còn tùy thuộc vào cơ địa của từng người. Trái cam (cam sành, cam chanh) chỉ thực sự bổ với những người khỏe mạnh, hoặc những người bệnh do chứng thực gây nên, như sẽ nói đến ở dưới đây. Ngược lại với bệnh nhân mắc chứng hư (hàn) mà ăn cam có thể dẫn đến chết người (!?). Nhất là trong tường hợp bị mổ xẻ, ăn cam (hàn) sẽ làm vết thương lâu lành (vì sinh nhiều tân dịch). Cũng tương tự như vậy, tuýp C sủi gồm 20 viên Multivitamin, được quảng cáo là “Energy for everyday” (năng lượng cho hàng ngày) cũng mang âm tính và có tác dụng như nước cam. Rồi ai đó bảo rằng mọi bệnh cứ nấu vỏ chanh mà uống sẽ khỏi hết. Xin cảnh báo rằng: quả chanh thì hàn, trong đó tép chanh và hạt chanh đều hàn, nhưng vỏ chanh lại ôn. Vì vậy vỏ qủa chanh có thể hợp với các bệnh hư hàn và không lợi với các bệnh thực nhiệt.
          Vậy hư hàn và thực nhiệt là gì? Theo Y học phương Đông, cơ thể con người chúng ta chỉ được khỏe mạnh khi hai khí Âm và Dương trong cơ thể có sự cân bằng. Nếu Dương vượng thì sẽ gây ra bệnh mang tính nhiệt (Đông y coi là Chứngthực). Ngược lại, nếu Âm vượng sẽ xuất hiện bệnh mang tính hàn (Đông y coi là Chứng hư). Thường thì hai khí Âm, Dương lại có mối quan hệ mật thiết với nhau. Khi Dương vượng thường làm cho Âm suy, và ngược lại. Nguyên tắc trị bệnh của Đông y là Bổ và Tả, hiểu nôm na là vừa xoa vừa đấm (tả nghiã là đả). Nếu Dương vượng thì tả Dương làm cho Dượng bớt đi. Khi Dương vượng thường kéo theo Âm suy thì một mặt tả Dương, mặt khác lại phải bổ Âm để nâng Âm lên mà tạo thế cân bằng mới.
          Còn khi điều trị bằng Tây y, thày thuốc không quan tâm đến tính chất Âm Dương của bệnh. Nhưng nếu không giải quyết được sự cân bằng Âm Dương thì dùng thuốc rất lâu khỏi hoặc rất khó khỏi. Vậy song song với việc dùng Tây y (nhất là các trường hợp bệnh cấp tình), nên kết hợp với Đông y để lấy lại sự cân bằng Âm Dương cho cơ thể.
          Vấn đề đặt ra là: Làm thế nào để phát hiện được sự mất cân bằng Âm Dương của cơ thể và bằng cách nào có thể lấy lại sự cân bằng này?
          Nếu bạn đi điều trị bằng Đông y, Bác sỹ Đông y qua Tứ chẩn (văn, vấn, vọng, thiết) có thể xác định được tính chất hàn hay nhiệt (hư hay thực) của bệnh và cắt thuốc theo nguyên tắc Bổ - Tả nói trên để lập lại cân bằng Âm Dương cho bạn. Khi Âm Dương của cơ thể bạn cân bằng thì cũng là lúc bệnh của bạn đã khỏi hoặc gần khỏi.
          Ngược lại nếu bạn đi điều trị bằng Tây y, như đã nói trên,bác sỹ Tây y không quan tâm đến tính chất hàn hay nhiệt (hư hay thực) của bệnh.Trong những trường hợp này,những người có năng lượng Trường sinh học(NLTSH) ở mức cao, (nhận được từ quá trình luyện Thiền, tập Yoga, Khí công hoặc Nhân điện)có thể giúp bạn xác định được tính chất Âm Dương của bệnh mà bạn đang mắc, bằng cách đặt tay lên cơ thể bạn, (hoặc lên ảnh của bạn, trường hợp bạn ở nơi xa) và dùng con lắc gọi ra được tính chất Âm Dương cuả bệnh (và cũng là tính chất Âm Dương của cơ thể bạn). Khi Âm Dương mất cân bằng, có hai trường hợp cơ bản xảy ra:
-      Hoặc là Âm vượng thì ắt Dương suy (1)
-      Hoặc là Âm suy thì ắt là Dương vượng.(2)
Rất hiếm gặp trường hợp cả Âm và Dương đều suy hoặc đều vượng.(Hoặc nếu gặp thì sẽ là các trường hợp  cứu chữa rất phức tạp, vì Âm Dương “thác loạn”.)
          Trạng thái Âm Dương của cơ thể lại do chúng ta nhập vào từ đồ ăn, thức uống hàng ngày.Tất cả các đồ ăn thức uống chúng ta sử dụng, nếu tính theo mức độ nhiệt, sẽ được chia làm năm loại cả thảy: Có loại rất nóng (ta gọi lànhiệt - N); có loại nóng ít hơn (gọi là ôn - ô). Có loại rất lạnh (ta gọi là hàn - H); có loại không lạnh lăm(gọi là mátM, danh từ Hán Việt gọi là lương). Cuối cùng là những loại không nóng không mát, tức trung tính (được gọi là bình–B). Muốn giữ cho cơ thể cân bằng Âm Dương buộc ta hàng ngày phải ăn uống sao cho các đồ ăn thức uống dễ cân bằng Âm Dương. Có lý thuyết cho rằng mỗi ngày (thậm chí mỗi bữa) ta nên ăn uống khoảng 15  hoăc 20 thứ khác nhau (hiểu nôm na là quăng tọa độ ra thật nhiều để chúng bù trừ nhau mà tự cân bằng Âm Dương).Thoạt đầu bạn có thể phát hoảng, nhưng cứ để ý mà xem, mỗi bữa ăn nhà bạn cũng dùng tới gần chục thứ khác nhau rồi đó. Ngoài ra các bữa ăn gần nhau không nên ăn các món ăn giống nhau là được rồi.
          Không hiểu xưa nay người ta căn cứ vào đâu để xác định rằng vị thuốc này (hay sản phẩm này) là nhiệt, ôn, hàn, mát hay bình? Rất có thể đây là kết quả kiểm nghiệm qua nhiều đời, và đã được ghi vào các sách nào đó, nhưng không được phổ biến rộng rãi, vì chẳng mấy người cần biết làm gì. (Riêng các vị thuốc Đông y thì sách vở không chỉ xác định rõ công dụng mà còn định rõ tính chất nhiệt của từng vị). Ngày nay,nếu quan tâm đến việc giữ cân bằng Âm Dương cho cơ thể, chúng ta rất cần biết đến tính chất nhiệt của từng đồ ăn thức uống. Hiện tại, tính chất nhiệt của mọi đồ ăn thức uống có thể kiểm tra và xác định được nhờ con lắc và bàn tay người có NLTSH cao, với thời gian cần cho mỗi thí nghiệm không quá 5 giây và lượng sản phẩm cần dùng chỉ cỡ 3 đến 5 gram. Hiện nay trên mạng chưa thấy có bảng liệt kê này. Người viết bài này xin cung cấp cho bạn đọc biết tính chất nhiệt (N), ôn (Ô), hàn (H), mát (M) hoặc bình (B) của một số đồ ăn thức uống thường dùng (khoảng trên 100 thứ khác nhau), đã được kiểmnghiệm bằng con lắc, như bảng dưới đây: (Bảng này sẽ được cập nhật tiếp, khi có điều kiện)

BẢNG PHÂN LOẠI MỘT SỐ LƯƠNG THỰC, THỰC PHẨM
Theo tính: nóng (N), ôn (Ô), mát (M),hàn (H)hay bình(B)
Số
thự
tự

Tên thực phẩm

Tính chất
N,Ô, M, H, hay B
01
Cơm tẻ các loại
B
02
Cơm nếp (xôi trắng, xôi gấc)
B
03
Bánh mỳ
B
04
Ngô bắp luộc
B
05
Khoai lang
B
06
Khoai Tây
B
07
Khoai sọ
H
08
Rau muống, Rau ngót, Ngải cứu
B
09
Rau bí
B
10
Rau mồng tơi, Rau đay
H
11
Rau lang, Rau dền
H
12
Rau xà lách, Rau dút
H
13
Rọc mùng
H
14
Mộc nhĩ trắng
B
15
Mộc nhĩ đen
H
16
Rau răm
N
17
Rau kinh giới
B
18
Rau mùi, Rau thì là
B
19
Rau húng chó (húng quế)
B
20
Rau mùi tầu
H
21
Rau húng chũi
H
22
Lá chanh (dùng ăn thịt gà)
H
23
Tai chua rừng
H
24
Củ tỏi (Cả Tỏi đen)
N
25
Củ sả
N
26
Củ riềng
N
27
Củ gừng sống
N
28
Củ gừng nướng chín
H
29
Củ nghệ vàng
B
30
Củ hành (Ta, Tây, hành hoa)
B
31
Củ (Bột) sắn dây
H
32
Quả ớt chín, Tương ớt
N
33
Quả cà chua chín
Ô
34
Quả mướp thường
B
35
Quả mướp đắng
H
36
Quả cà ghém
H
37
Quả bí xanh
B
38
Quả bí đỏ
B
39
Quả táo Tây,
B
40
Quả táo ta, Đu đủ chín
H
41
Quả xoài
B
42
Quả mít chín, Nhãn chín
N
43
Quả cam (cam chanh, cam sành)
H
44
Quả cam Canh, cam giấy
B
45
Quả bưởi
B
46
Quả quýt Sài Gòn, Hà Giang
N
47
Quả dứa chín,
B
48
Quả vải thiều
N
49
Quả mận hậu
B
50
Quả đào
B
51
Quả chanh, Qủa na
H
52
Vỏ quả chanh
Ô
53
Quả quất
B
54
Quả sấu
H
55
Quả Thanh trà
H
56
Quả nho tươi
H
57
Quả Thanh long, Qủa bơ
H
58
Thảo quả
N
59
Quả dưa hấu
B
60
Quả dưa lêvà Quả lê
H
61
Hạt tiêu đen, Củ Tỏi đen
N
62
Hạt đậu xanh cả vỏ
Ô
63
Hạt đậu xanh xát vỏ
B
64
Hạt đậu đen
H
65
Hạt lạc sống hoặc đã rang chín
H
66
Hạt vừng đen
H
67
Hạt vừng trắng
B
68
Thịt gà
B
69
Thịt lợn
B
70
Thịt bò
Ô
71
Thịt chó
N
72
Thịt trâu, Thịt vịt, Thịt ngan
H
73
Ngao, sò, ốc,  hến
H
74
Đậu phụ sống
H
75
Bơ Président
H
76
Trứng gà sống
N
77
Trứng vịt các loại
H
78
Cá tôm (nói chung)
B
79
Cua đồng xay
H
80
Đường kính trắng
Ô
81
Đường phèn, đường hoa mai
M
82
Đường ăn kiêng các loại
H
83
Muối trắng
B
84
Bột ngọt
B
85
Dầu rán các loại
B
86
Nước mắm cá cơm
B
87
Mazi Chin su
H
88
Nước cáy
H
89
Mắm tôm
H
90
Tương Bần
H
91
Dấm gạo
H
92
Mật ong
H
93
Rượu trắng Hà Nội
N
94
Rượu Sâm panh
B
95
Rượu vang các loại
B
96
Rượu Tây cao độ (> 400)
B
97
Rượu Mao Đài TQ (530)
B
98
Cồn Y tế 900
B
99
Bia các loại
H
100
Viên C sủi (Multivitamin)
H
101
Chè khô (Thái Nguyên, Phú Thọ)
N
102
Chè túi lọc Lipton
N
103
Chè túi lọc Cery
B
104
Chè vị chanh (Nestea)
H
105
Nước chè xanh
H
106
Nước vối
H
107
Nước mía
B
108
Cà phê đen (Trung Nguyên, G7)
N
109
Cà phê sữa (3 in 1, )
B
110
Café Việt (Nescafe)
B
         
        Cần phải nói rằng: lâu nay chúng ta chỉ mới hiểu được: “Thiên - Địa - Nhân hòa đồng”, có nghĩa là con người có mối quan hệ hòa đồng với Trời và Đất. Khí Dương tượng trưng cho Trời và khí Âm tượng trưng cho Đất. Hai khí Âm và Dương trong cơ thể con người phải cân bằng thì con người mới khỏe mạnh. Bây giờ có lẽ phải hiểu thêm rằng: Mọi sinh vật trên trái đất này đều có sự hòa đồng với Trời và Đất. Nghĩa là khí Âm và khí Dương cũng tồn tại ở mọi sinh vật, cả động vật và thực vật.Mọi sản phẩm tự nhiên hoặc nhân tạo đang tồn tại đều có trong nó hai khí Âm và Dương.Nếu khí Âm vượng thì tùy thuộc mức độ vượng, sản phẩm đó mang tính hàn hay mát. Ngược lại, nếu khí Dương vượng thì sản phẩm đó sẽ mang tính nóng hoặc ôn. Còn nếu hai khí Âm Dương trong sản phẩm nào đó cân bằng thì sản phẩm có tính bình (không nóng, không mát).Các sản phẩm công nghiệp, do công nghệ chế biến khác nhau mà có tính nhiệt khác nhau. Ví dụ cùng là rượu trắng, nhưng rượu Mao Đài có tình bình (mặc dù 530), còn rượu Hà Nội (< 400) lại nóng. (Điều này cho thấy chúng ta đang dùng công nghệ lạc hậu).
Qua bảng trên cho ta thấy một số nhận xét chung là:
          1/ Các thực phẩm mà thiên nhiên cung cấp cho loài người và cả những thứ loài người tạo ra, gọi chung là tự nhiên và nhân tạo,phần lớnđều là các thực phẩm trung tính (B). Loài người do ăn uống không hợp lý nên gây ra mất cân bằng Âm Dương và sinh ra bệnh tật. Rồi khi đã mắc bệnh lại không biết kiêng khem cho đúng cách nên đôi khi làm cho bệnh trầm trọng thêm, thậm chí dẫn đến chết người. Cái lý “Chết tại cái miệng““kém hiểu biết”là ở chỗ đó.
          Cũng cần nói thêm rằng, theo triết lý “thân cường thì tật nhược và ngược lại” của Đông y thì khi tuổi còn trẻ, ta có thể ăn uống “xô bồ” mà không bị bệnh tật, có nghĩa là không làm cơ thể mất cân bằng Âm Dương. Nhưng khi tuổi đã xế chiều, không còn cường tráng nữa, rất nên chú ý giữ sự cân bằng này. Mặt khác cũng cần lưu ý là trong số chúng ta có người máu hàn, người máu nóng (nhiệt). Để tránh mất cân bằng Âm Dương thì người máu nóng nên dè dặt với các thực phẩm nóng và ngược lại. Đặc biệt, chị em phụ nữ sau khi sinh con nếu là máu hàn mà ăn thịt trâu, vịt hoặc ngan (hàn) vào sẽ rất mắc chứng “hậu sản”, ngược lại nếu là máu nhiệt lại có thể ăn được.
          2/ Một số thực phẩm lâu nay mọi người vẫn tưởng lànóng, thậm chí cực kỳ nóng như Rượu Tây (thường trên 400), Rượu Mao Đài TQ (530), Cồn y tế (900) thì lại chỉ là bình (B). Cũng tương tự như vậy: ai cũng nghĩ ăn xoài và ăn dứa chín là nóng, thì thực tế chỉ là bình. Đặc biệt là mật ong, mười người thì chín người bảo nóng (N), nhưng thực tế mật ong lại rất mát (H). Rồi đậu xanh cả vỏ, nhiều người cho là mát thì lại là ôn (Ô). Riêng về hạt đậu xanh có ba thành phần: mầm đậu là thứ sau này phát triển thành giá đỗ sẽ rất mát (H), thịt đậu mang tính bình (B), còn vỏ đậu lại ôn (Ô).Có thể do tính trội của vỏ mà cả hạt đậu xanh được coi là ôn.Một bắp ngô được coi là bình (B), thì mầm ngô (hay mày ngô) rất mát (H), còn lõi ngô lại rất nóng (N).
          3/Tính chất mát, nóng của các thực phẩm như đã nêu trên đây cũng chỉ là tương đối.Một ly rượu trắng Hà Nội là loại nóng (N), nếu được pha thêm vào một thìa nhỏ mật ong hàn (H),thì lại trở thành hàn (H).
          Có điều rất lý thú và đơn giản là Khi cơ thể của ai đó bị mất cân bằng Âm Dương, tác giả bài viết này chỉ cần khuyên họ ăn Quýt, nếu bị Âm vượng, Dương suy hoặc ăn Cam (hay uống nước cam), nếu bị Âm suy, Dương vượng.(Chú ý không được ăn (uống) ngược lại mà làm cho bệnh nặng thêm). Ý nghĩa của cụm từ Cam hàn, Quýt nhiệt đã được khai thác như thế đó ! (Còn Bưởi: tiêu, tức bình thì vô hại). Thực tế cho thấy nhiều người chỉ cần dùng dăm ba quả Quýt hoặc Cam (thậm chí ít hơn) đã có thể lấy lại được cân bằng Âm Dương và bệnh tật đã bớt hẳn. Chuyện tưởng chừng như khó tin, nhưng sự thực là như vậy đó.
          Xin được nói thêm đôi điều về hai nền Y học Đông y và Tây y. Dân ta thường  “có mới, nới cũ”, nên có lúc nền Y học cổ truyền (Đông y) đã gần như bị lãng quên..Ngày nay quan niệm này đã thay đổi hẳn. Tuy vậy sự giao thoa giữa hai nền Y học cũng còn là vấn đề chưa dễ dàng gì. Theo Giáo sư Hoàng Bảo Châu,khicăn cứ vào kết quả của các xét nghiệm Lý – Hóa – Sinh của Y học hiện đại (Tây y), người ta hoàn toàn có thể nhận ra được hai nhóm Bệnh nhân thực nhiệthư hàn như các thày thuốc Đông y đã xác nhận được nhờ Tứ chẩn. (Nội dung cụ thể xin không nêu ra ở đây). Vì thế, theo thiển nghĩ của tác giả bài viết này, nếu các bác sỹ Tây y tìm hiểu thêm nguyên lý điều trị của Đông y thì hiệu quả điều chắc chắn sẽ tốt hơn.
Về thuốc men, theo Giáo sư Hoàng Bảo Châu, thuốc Tân dược (thuốc Tây) cũng có tính nhiệt ( N, Ô, B, M và H) như thuốc Đông y.  Cụ thể như sau:
1/ Thuốc Hàn – Mát (H- M) gồm  phần lớn các thuốc trong các nhóm: ức chế thần kinh, gây mê, gây ngủ, an thần, chống động kinh,liệt thần kinh, giảm đau, giảm sốt, cường phó giao cảm, liệt giao cảm, trợ tim (spatcin – digitalin), kháng histamine, lợi niệu (dẫn chất thủy ngân sunphamit) nhuận tràng, long đờm (muối kiềm), kháng sinh (penixilin và họ lactamit), sunphamit kháng khuẩn, sunphamit hạ đường huyết, hoc-mon: corticoid ơstrogen, vitamin C, thuốc ức chế miễn dịch, một số chất vô cơ như borax, magie sunphat, natribicacbonat, natribromua, natriclorua, natri sunphat, ôxyt kẽm..
2/ Thuốc Ôn – Nhiệt (Ô-N) gồm phần lớn các thuốc trong các nhóm: kích thích thần kinh trung ương, liệt phó giao cảm, cường giao cảm, trợ tim (nikethamit), kích thích hô hấp (lobelin), lợi niệu (dẫn chất xathin caphêin), thuốc gây táo bón (amin), long đờm (creozot), các tinh dầu kháng sinh (streptomyxin, tetracylin), hocmon (thyroxin, testosteron), vitamin B 12, D . . ., thuốc kích thích miễn dịch (levamiton), thuốc bổ (pantocrin), thuốc kích thích tăng bạch cầu (pentoxyl), hợp chất hữu cơ của thạch tín, một số chất vô cơ asensunfua (hùng hoàng), caxiclorua, thạch tín.
Ngoài ra, theo kinh nghiệm và kiểm nghiệm thực tế bằng con lắc của tác giả bài viết này thì hầu hết các thuốc trị các bệnh mãn tính như Tiểu đường (Diamicron, Glucofine) và Huyết áp (Losartan, Indapamid, Panangin) đều có tính bình (B), vì thế có thể uống lâu dài mà không ảnh hưởng đến cân bằng Âm Dương. Các thuốc trị viêm loét dạ dày (Omeprazol, Mucosta Tab. …) đều rất nóng (N). (Mucosta chỉ uống trong thời gian không quá 10 ngày). Một điểm nữa mà người cao tuổi cần lưu ý là khi phải uống nhiều thuốc kháng sinh loại nóng, như đã nêu trên, rất cần uống kèm với thuốc nhuận tràng, nếu không rất dễ bị táo bón rất nguy hiểm.
          Cuối cùng, xin thưa cùng các bạn đọc rằng: Tôi không phải là một chuyên gia về y học. Xuất phát từ yêu cầu cầnbảo vệ sức khỏe của bản thân, gia dình và bạn bè là những người cao tuổi, tôi đã tìm hiểu qua nhiều tài liệu khác nhau, có sự chọn lọc và suy nghĩ chủ quan của bản thân để biên tập thành tài liệu này. MONG GIÚP ÍCH CHO ĐỜI ĐƯỢC ÍT NHIỀUDo trình độ có hạn nên có thể còn tồn tại những sai sót nhất định. Rất mong được mọi người phát hiện và chỉ báo thêm cho. Xin chân thành cám ơn.
          Đặc biệt, tôi xin chân thành cảm ơn TS.BS Đõ Minh Cầm, người đã động viên và giúp tôi hoàn thành tài liệu này.
          Mọi thông tin cần trao đổi xin gửi qua Email: của tác giả là: trankimanh1643@gmail.com, hoặc qua số điện thoại di động là: 0982 415 143
Bắc Linh Đàm: Tháng 3 năm 2017
Cựu chiến binh KQ-- Kỹ sư – Nhà giáo TRẦN KIM ANH


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét