Thứ Sáu, 24 tháng 2, 2017



Câu chuyện tình của chàng trai 28 tuổi tới Bắc Minahasa, Indonesia kết hôn với người phụ nữ 82 tuổi đang làm xôn xao dư luận nước này.

Cặp đôi này chính thức nên duyên vợ chồng vào ngày 18/2 vừa qua và thông tin về đám cưới nhanh chóng gây 'bão' trên các mạng xã hội sau khi được đăng tải.
Theo Harian Metro, chàng trai trẻ Sofian Loho Dandel đang làm việc tại một công xưởng. Anh kể rằng đã gặp vợ mình, bà Martha Potu, khoảng 1 năm trước, khi bà gọi nhầm vào điện thoại của anh.
Chú rể kể: "Một năm trước, tôi nhận được cuộc điện thoại từ số lạ, tôi trả lời và chúng tôi làm quen. Kể từ đó, chúng tôi giữ liên lạc mà tôi không biết tuổi của cô ấy".
"Tôi chưa từng hẹn hò ai và tôi nghĩ mình đã yêu", Sofian chia sẻ thêm.
Vì tình yêu, chàng trai vượt 120km để thăm người yêu ở phía Nam Minahasa và khi nhìn thấy Potu, Dandel choáng váng vì không nghĩ 'cô ấy già như vậy'. "Nhưng chúng tôi thực sự yêu nhau và quyết định tiếp tục mối quan hệ này", Dandel tuyên bố.
Sau vài tháng gặp gỡ, họ quyết định làm đám cưới bất chấp sự phản đối từ cả 2 bên gia đình, đặc biệt là gia đình bà Martha. Mẹ chồng cô dâu, 60 tuổi tỏ ra kinh ngạc khi biết tuổi vợ sắp cưới của con trai mình.

Thứ Ba, 21 tháng 2, 2017

NGUYỄN BÍNH -NHÀ THƠ HIỆN ĐẠI

NGUYỄN BÍNH – NHÀ THƠ HIỆN ĐẠI
Tiểu luận của Trần Mạnh Hảo
( Nhân kỷ niệm 30 năm ngày mất của nhà thơ Nguyễn Bính 20-1-1996)

Nhân một buổi hội thảo thơ 1932-1945, một độc giả hỏi : “ Nếu cần phải chọn một câu thơ hay nhất để đại diện cho Thơ Mới ( thơ tiền chiến) , ông sẽ chọn câu thơ của ai ?”. Không do dự, tôi trả lời : “ Tôi xin chọn câu lục bát : “ Anh đi đấy, anh về đâu / Cánh buồm nâu cánh buồm nâu cánh buồm !” của Nguyễn Bính”. Lại hỏi : “nếu phải chọn một bài cho nền thơ ấy, ông chọn bài nào ?”. Trả lời : “ Tôi chọn bài Tống biệt hành của Thâm Tâm”. Lại hỏi : “nếu phải chọn một tập hay nhất của nền thơ ấy, ông chọn tập nào?” . Trả lời : “Tôi chọn tập “ Lửa thiêng” của nhà thơ quê Hà Tĩnh Huy Cận”. Lại hỏi : “nếu phải chọn một đời thơ tiêu biểu nhất của nền thơ ấy, ông chọn ai ?”. Tôi trả lời : “ Tôi chọn Nguyễn Bính !”.
Vâng, Nguyễn Bính, nhà thơ bị giời đầy : “ Mình tôi giời bắt làm thi sĩ !” Câu thơ ông viết từ những năm đầu của thập kỷ 40 đã vận vào ông : “Chung lưng làm một chuyến đi đầy”. Thậm chí ông còn nhắc con gái sau này : “Nhất kiêng đừng lấy chồng thi sĩ / Nghèo lắm con ơi bạc lắm con”.
Có lẽ, trong thơ tiền chiến, Hàn Mặc tử và Nguyễn Bính là hai nhà thơ có số phận ít được vận may chiếu cố. Hàn Mặc tử bị trăng hành. Còn Nguyễn Bính bị con bướm Trang Chu hành tới bến. Nếu Thế Lữ được biểu tượng thơ là con hổ, Lưu Trọng Lư là con nai, Chế Lan Viên là con ma Hời, Xuân Diệu là con chim ngứa cổ hót chơi…thì con bướm là biểu tượng cho thơ Nguyễn Bính :

“ Có ai điên dại như tôi nhỉ

Nuôi bướm làm con để nhớ người”
Hay :
“ Hồn trinh còn ở trần gian
Nhập về bướm trắng mà sang bên này”…
Trong thơ ông, bươm bướm bay nhiều quá, rượu và hoa nhiều quá, nhiều quá những cô gái đẹp chưa chồng. Nhưng bướm đã bay đi, rượu đã nhạt, hoa đã tàn, trinh nữ đã theo chồng hoặc đã chết, chỉ còn mình nhà thơ ngồi lại với phũ phàng và điên đảo :
“Mưa chiều nắng sớm người ta bảo
Cả đến ông giời cũng đổi thay” ( Giời mưa ở Huế)
Tháng chạp năm Nhâm Ngọ 1942, khi mới 24 tuổi, Nguyễn Bính đã viết được những câu thơ hay đến kinh hãi về nỗi buồn, nỗi cô đơn của kẻ lạc loài, của nỗi oán hận suồng sã phải thất tình thay cho con ong cái bướm :
“Uống say cười vỡ ba căn gác
Ném cái chung tình xuống đáy sông” ( Xuân tha hương)
Cùng “cái chung tình” ấy, nhà thơ hầu như đã ném tuổi trẻ mình xuống đáy sông của định mệnh, theo kiểu Thúy Kiều ném 15 năm lưu lạc xuống đáy Tiền Đường .
Nguyễn Bính mồ côi mẹ từ tấm bé. Ta hiểu vì sao nỗi bơ vơ ám ảnh suốt đời ông. Ta hiểu ngay từ lúc mới 13 tuổi, làm bài thơ đầu, ông đã thèm yêu, thèm sống, thèm khát ràng buộc với tất cả và chia tay tất cả. Ông đã vịn vào chuồn chuồn bươm bướm tập đi như vịn chính vào niềm hư vô của kiếp người. Theo Hoài Thanh, Nguyễn Bính chưa hề được đến trường ! ( Giống văn hào M. Goocki của Nga ?). Ông tự học theo người cha và người cậu. Thầy của ông là chim muông cỏ rả làng Thiện Vịnh xa xôi. Tuy nhiên, mọi thứ nào thay thế được mẹ ông.

Nguyễn Bính mồ côi mẹ nên đã mồ côi cả đất trời. Hình như ông đã lớn lên bằng cảm giác của Trần Tử Ngang - người đi dọc thơ Đường : “ Tiền bất kiến cổ nhân / Hậu bất kiến lai giả …( Trước không thấy người trước / Sau chẳng thấy người sau). Cảm giác ngồi một mình bơ vơ trên trái đất của Trần tiên sinh xưa không chỉ được Nguyễn Bính chia xẻ, mà đã thành phận số đời ông. Năm 1937, khi mới 19 tuổi, nhà thơ đã viết một bài thơ tuyệt vời “ Những bóng người trên sân ga” với tận cùng cô đơn kiếp người hay đến mức không còn có thể hay hơn nữa :

“ Chân bước hững hờ theo bóng lẻ
Một mình làm cả cuộc phân ly”
Câu thơ viết ra gần 60 năm rồi, đã sống và chết theo bao lớp người, theo bao trang giấy, qua bao nhiêu trào lưu hiện thực siêu thực, hiện sinh rồi cấu trúc, có vần với không vần, lạ thay, chưa có một ai nói về nỗi cô đơn kiếp người hay bằng câu thơ này của thần thơ Nguyễn Bính ? Hóa ra, cái hình ảnh giản dị và xúc động tận cùng kia, cái dáng người một mình đưa tiễn bóng mình kia, cho đến muôn đời vẫn cứ còn mới mãi, thấm thía và rung cảm mãi.
Nguyễn Bính với cảm quan thiên phú, một trực giác của thảo mộc chim muông, đã biết cách tiễn mình đi vào thi ca bằng lối đi của con bướm dưới gốc hòe Trang tử ! Cái dáng “Chân bước hững hờ theo bóng lẻ” kia không biết mình đang tiễn bóng hay bóng đang tiễn mình ? Với triết học bản thể, câu thơ “ một mình làm cả cuộc phân ly” không chỉ là biểu tượng sinh động, kỳ vĩ, mà còn là một khơi gợi, một phát hiện tâm linh trong hình trình nhập thể nhân loại. Chúng tôi tin rằng, câu thơ này của Nguyễn Bính còn theo ta tới cuối cuộc đời, đến nơi ta chia ly chính bản thân mình để vào vô tận.Viết được những câu thơ có thể sánh với bất cứ thơ Tây Tầu nào hay nhất, ai bảo thơ Nguyễn Bính không hiện đại ?
Thế mà từ năm 1941, năm ra đời cuốn “Thi nhân Việt Nam”của Hoài Thanh, đã có khá nhiều bài viết, nhiều khảo luận về thơ, khi nói về Nguyễn Bính, đều ăn theo lối kết luận phiến diện của Hoài Thanh Hoài Chân cho Nguyễn Bính là thơ nhà quê, chân quê, đồng quê, quê mùa…
Nói về Nguyễn Bính theo trường phái Hoài Thanh mới chỉ nhìn nhà thơ ở phần nổi, phần xác chữ nghĩa mà chưa đủ tầm đi sâu vào hồn thơ rất cổ điển, lại rất hiện đại của Nguyễn Bính làng Thiện Vịnh, huyện Vụ Bản, Nam Định kia ( huyện Vụ Bản còn là quê hương của một thiên tài thi nhạc khác đồng thời với Nguyễn Bính là Văn Cao)
Nguyễn Bính đi tận cùng dân tộc để thành hiện đại : thơ ông phần xác còn mang nâu sồng ca dao nhưng phần hồn đã vươn tới cõi hiện đại vô cùng nhân loại vậy ! Chúng tôi không muốn nói đến “chủ nghĩa hiện đại” phương Tây mà Việt Nam hầu như không có, nên không coi tính hiện đại của thơ chỉ lụy vào con chữ, vào cái bí hiểm cung quăng không thể hiểu, vào cái siêu thực nằm ngoài cảm nhận, mà chỉ đánh giá thơ qua cái sự hay, sự xúc cảm của nó, của nghĩa bóng thơ luôn cất cánh từ nghĩa đen như những câu thơ hay của thi hào Nguyễn Bính mà thôi !
Cho nên, với chúng tôi, hiện đại hay không hiện đại cốt ở hồn thơ, ở nỗi cảm nỗi hay của nó mà thôi. Những câu ca dao và thơ cổ hay nhất của văn học cha ông ta ai bảo không hiện đại nào ? “Gió đưa cây cải về trời / Rau răm ở lại chịu lời đắng cay” của ca dao hiện đại quá đi chứ ? “ Có thì có tự mảy may / Không thì cả thế gian này cũng không” của thơ Lý Trần hiện đại quá đi chứ ? “ Cái quay búng sẵn trên trời / Mờ mờ nhân ảnh như người đi đêm” của Ôn Như hầu hiện đại quá đi chứ ? “ Bắt phong trần phải phong trần / Cho thanh cao mới được phần thanh cao” của Nguyễn Du hiện đại quá đi chứ ? “ Hoa thì hay héo cỏ thường tươi” của Nguyễn Trãi hiện đại quá đi chứ ? “ Hồn cô cát bụi kinh thành / Đa đoan vó ngựa chung tình bánh xe” của Nguyễn Bính hiện đại quá đi chứ ?
Hầu hết thơ Nguyễn Bính dưới cái vỏ chân quê giản dị hiền lành như ca dao, nhưng giấu ẩn sức nghĩ, sức cảm, sức gợi vô cùng tận, hiện đại vì nó hay ở mọi lúc mọi thời. Viết về cái đẹp của sự trống vắng, gợi ra, vẽ ra được cái vẻ tôn giáo của hư vô tồn tại ngay trong lòng cái hữu hạn, phỏng có nhà thơ tiền chiến qua mặt được câu thơ này của Nguyễn Bính :
“Giếng thơi mưa ngập nước tràn
Ba gian đầy cả ba gian nắng chiều”
Nỗi trống vắng vô chủ của ba gian nhà trong câu thơ, đã được xúc cảm đẩy từ cái cụ thể thành cái vô biên : nỗi trống vắng và vô chủ của đất trời. Mượn nỗi hoang vu bé mọn của nắng chiều trong căn nhà nhỏ để tả nỗi hoang vu vũ trụ, cũng là nỗi hoang vu muôn thuở hồn người, lục bát Nguyễn Bính hiện đại lắm ru !
Khi Nguyễn Bính tả nỗi cô đơn đến rêu mốc bí mật của kinh thành Huế, cũng để nói vế vẻ huy hoàng tàn phai, hay chính là hồn suông thi nhân mượn cả hoàng thành mà hiu quạnh :
“Thâm u một giải hoàng thành
Đình suông con én không đành bay đi” ( Vài nét Huế)
Con én tân thời không nỡ bỏ cái hoang phế hoàng thành bay đi hay chính là cái níu kéo của hiện tại với quá khứ ? Cái chấm én mọc lên như một cái mầm, cái chồi của lẻ loi, khiến vẻ tàn phai càng tàn phai hơn nữa. Ngoảnh lại cố đô, con én thi ca mà Nguyễn Bính đính lên từ độ ấy, vẫn không đành đoạn bay đi, như thể loài chim thơ ấy vẫn còn là tình nhân bao thời đại đã đi qua !
Trí tuệ thơ Nguyễn Bính là trí tuệ sương mù, của hoa bướm của lửng lơ mây khói. Chất sang trọng hàn lâm giấu trong lục bát nâu sồng Nguyễn Bính như hồn sen giấu trong bùn, ghé mắt vào ta sẽ thấy hoa sen :
“ Hồn anh như hoa cỏ may
Một chiều cả gió bám đầy áo em”
“ Buồng hương bóng bóng mình mình
Gió hiu hiu hắt qua mành mành hoa”
Bên cạnh những bài lục bát nổi tiếng : “Tương tư”, “Lỡ bước sang ngang”, “Người hàng xóm”…ông còn những bài lục bát hiện đại khác : “”Lửa đò”, “ Vũng nước”, “ Qua nhà” và “Thời trước”…
Khi đánh giá thơ tiền chiến nói chung và Nguyễn Bính nói chung, người ta đã thừa nhận sự vượt trội của thơ lục bát Nguyễn Bính nhưng chưa thấy trong thể thơ bảy tám chữ, Nguyễn Bính cũng chẳng kém cạnh bất cứ thi nhân hàng đầu nào cùng thời với ông.Trong thể loại mượn cảnh tả tình, Nguyễn Bính đã có bài thơ vào hàng tuyệt tác là bài “Xuân về” có thể đứng ngang hàng với các bài hay nhất của Hàn Mặc tử và Huy Cận. Về thể hành, bài thơ “Hành phương Nam” của ông không hề hổ thẹn đứng bên cạnh bài tuyệt bút “Tống biệt hành” của Thâm Tâm. Viết về đất thần kinh xứ Huế, xưa nay chưa thấy bài nào hay bằng bài “Xóm Ngự viên” của Nguyễn Bính ? Ông đã làm sống lại thời vang bóng bằng câu thơ hay đến ma quái :
“ Sớm đào, trưa lý, đêm hồng phấn
Tuyết Hạnh, Sương Quỳnh, máu Đỗ Quyên”
Hai câu này có thể ngang với câu vi diệu của Xuân Diệu :
“Vì nghe nương tử trong câu hát
Đã chết đêm rằm theo nước xanh” ( Nguyệt Cầm)
Hãy đọc lại hồn thơ bi hùng ngang trời lệch đất Nguyễn Bính như “ Giời mưa ở Huế”, “Xuân tha hương”, “Oan nghiệt”…ta thả mình vào nỗi quằn quại như mất cả hình hài, đau thương dữ dội và đồng bóng, để chia xẻ với nỗi vong thân, vong quốc của lớp thanh niên trước 1945. Những bài thơ “ Cô hái mơ”, “Trường huyện”, “ Hoa và rượu”…là những bài thơ đẹp nhất thơ tiền chiến của Nguyễn Bính. Đâu đây ta nghe có hơi Huy Cận trong hồn thơ “ một trời quan tái” Nguyễn Bính :
“ Chênh vênh bóng ngả sầu lau lách
Chiều ngái hương rừng lối nhạt son”
Cái hơi Đường thi từ Huy Cận đi lạc vào Nguyễn Bính rất sang trọng, quý phái : “ Áo bào nguyệt bạch ngựa kim ô” hay đấy, siêu đấy nhưng không phải mạch chính của thơ ông. Cái hơi, cái hồn, cái vía Nguyễn Bính là ở những câu thơ rất Việt rất hay như :
“ Một con diều giấy không ăn gió
Õng ẹo chao mình xuống vệ đê”
Có hàng trăm người viết về tơ liễu từ thơ Đường đến Nguyễn Du, nhưng chưa ai hay bằng Nguyễn Bính tả liễu :
“Chiều về chầm chậm trong hiu quạnh
Tơ liễu theo nhau chảy xuống hồ”
Chỉ bằng từ “chảy”, Nguyễn Bính không chỉ hiện đại hóa thơ mình, ông còn làm mới cả hồn tơ liễu nghìn năm. Nguyễn Bính làm thơ rất bản năng, thậm chí như vô thức. Số lượng câu thơ hay của ông nhiều hơn bất cứ nhà thơ tiền chiến nào khác. Những câu thơ bất ngờ, hiện đại tới cùng này ai bảo Nguyễn Bính không mới :
“ Ở đây vô số những trời xanh”
Lối viết này Tây hơn cả Tây !
Hoặc quá ngạc nhiên khi ta đọc :
“ Xe ngựa chiều nay ngập thị thành
Chiều nay nàng bắt được trời xanh”
Hay :
“ Giời mờ ngao ngán một loài mây”
Xin lỗi, nếu ai trích được một câu của trường phái “tân con cóc” “ tân siêu thực” của Việt Nam hay ngang những câu này của Nguyễn Bính, tôi xin thưởng ba vạn chín nghìn con kiến,một trăm con voi !
Trong dòng thơ tiền chiến, chúng tôi bao giờ cũng biết cách tôn kính Thế Lữ, ngả mũ trước Xuân Diệu, thán phục Huy Cận, kinh ngạc trước Hàn Mặc tử, mơ mộng sầu thương cùng Lưu Trọng Lư, Hồ Dzếnh…Nhưng chúng tôi bao giờ cũng dành cho Nguyễn Bính trọn niềm yêu mến, không chỉ là tấm lòng hậu sinh với bậc tiền bối, mà còn vì tình yêu của độc giả mấy chục năm trời với thơ ông.
Chỉ tính gần chục năm lại đây ( năm 1995 khi
tác giả viết bài này) theo thống kê tạm thời của một số nhà xuất bản, thơ Nguyễn Bính đã in và phát hành tới số kỷ lục hàng triệu bản. Qua bao thăng trầm, Nguyễn Bính vẫn là nhà thơ số một được độc giả Việt Nam hâm mộ nhất sau Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Trãi).
Ba mươi năm đã qua kể từ năm Nguyễn Bính mất buổi trưa ngày 30 tết ấy, có lẽ hình ảnh đọng lại trong mắt thi hào Nguyễn Bính là vườm thuốc nam nhà ông Tân Thanh hay một loài mây, hay loài bướm trắng nào vừa chìm xuống đáy ao trước khi ông bụng không hạt cơm ngã xuống trong hôn mê và trong cơn đói vĩnh cửu ? Chỉ biết rằng thi ca ông đã thành vị thuốc nam chữa lành nỗi đau và niềm hư vô kiếp người.
Ông không tìm lối xuyên tường đưa thơ Việt vào hiện đại như ai đó. Thơ ông thẩm thấu qua trời sương khói, qua hồn ca dao, qua Truyện Kiều đưa nâu sồng lục bát quê hương vào hiện đại. Xin đọc lại một câu thơ Nguyễn Bính :
“ Xót xa một buổi soi gương cũ
Thấy lệch bao nhiêu mặt chữ điền”
Ôi những mặt chữ điền bị thời gian xô lệch muôn năm cũ, xin về đây soi lại chiếc gương thi ca hiện đại muôn sau Nguyễn Bính.,.
Sài Gòn 28-12-1995
Trần Mạnh Hảo

Thứ Năm, 2 tháng 2, 2017

MÙA XUÂN - MÙA RƯỢU VANG


Link cố định 29/01/2017@22h24, 401 lượt xem, viết bởi: nguyenlandung
Chuyên mục: Nhật ký
MÙA XUÂN- MÙA RƯỢU VANG

Bài đăng trên Tạp chí ĐỒ UỐNG số Tết



  Kết quả hình ảnh cho wine    


Kết quả hình ảnh cho white and red wine
Ly rượu vang mừng bạn đến thăm nhân ngày Xuân, vừa nhẹ nhàng, vừa nồng ấm. Mỗi dịp Xuân về nhà nhà đều sắm những chai rượu vang để đón khách. Tuỳ hoàn cảnh kinh tế mà người ta mua những chai rượu vang có giá tiền khác nhau, nhưng nói chung đều có độ rượu vừa phải và có màu sắc đẹp.

         Gọi là Vang vì tiếng Pháp là Vin, cây nho là Vigne. Nhà hiền triết Cổ Hy Lạp Socrtes từng viết:“ Rượu vang làm thấm ướt tâm hồn và ru niềm đau của ta vào giấc ngủ, đồng thời khua thức những cảm nghĩ dịu dàng.” Benjamin Franklin. Một trong những người tạo nên quốc gia Hoa Kỳ cho rằng: “ Rượu vang làm cho cuộc sống hằng ngày trở thành dễ dàng hơn, bớt vội vàng hấp tấp,ít căng thẳng và khoan dung, hoà nhã hơn”. Triết gia Cổ Hy Lạp Plato nhận xét:“ Thượng Đế không cho ta món quà nào đặc sắc và quý giá hơn Rượu vang”. Hoạ sĩ kiệt xuất Leonardo da Vinci xác định: “ Rượu vang là những giọt nắng đọng lại thành hương thơm, mật ngọt cho đời”. Ông còn có câu nói nổi tiếng: “Rượu vang là món quà của Thượng đế”. Để làm rượu vang người ta cho lên men trực tiếp nước ép nho và không qua quá trình chưng cất như đối với nhiều loại rượu khác. Tuỳ thuộc vào các giống nho khác nhau và các chủng nấm men khác nhau mà tạo thành các loại rượu vang khác nhau. Các dạng rượu vang nổi tiếng là kết quả của sự tương tác rất phức tạp giữa chất lượng của từng loại nho, các phản ứng liên quan đến quá trình lên men, cùng với sự can thiệp của con người trong quá trình sản xuất. Rượu vang có một lịch sử phong phú hàng ngàn năm, với việc sản xuất rượu vang sớm nhất cho đến nay được phát hiện đã xảy ra khoảng 6000 trước Công nguyên (TCN) ở Georgia. Bằng chứng khảo cổ đã khẳng định việc sản xuất sớm nhất được biết đến của rượu vang từ nho lên men trong quá trình hậu thời kỳ đồ đá mới hoặc đầu thời kỳ đồ đồng ở vùng Kavkaz và rìa phía bắc của Trung Đông. Một dự án lập bản đồ gen mở rộng năm 2006 đã phân tích nòi giống của hơn 110 giống nho hiện đại, và thu hẹp nguồn gốc của chúng vào một khu vực của Gruzia . Điều này phù hợp với các di tích khảo cổ được phát hiện sớm nhất có chứa những mảnh gốm màu rượu vang khoảng 6000 năm TCN ở Gruzia và khoảng 5000 TCN ở Iran. Các bình gốm tại khu vực tây bắc Iran đã cho thấy chúng được xử lý bằng nhựa thông, các hương liệu của retsina hiện đại . Khoảng 4500 TCN, việc sản xuất rượu vang đã được chuyển sang vùng Macedonia thuộc Hy Lạp cổ đại, các xưởng sản xuất rượu nho đầu tiênBAO GỒM các quá trình thu hồi và nghiền nát, và toàn bộ quá trình sản xuất rượu vang đã được phát hiện vào năm 2011 bên trong hang động Areni-1 ở Armenia, với niên đại khoảng 4100 TCN. Rượu vang Pháp bắt nguồn từ miền Nam nước Pháp vào thế kỷ thứ 6 trước Công Nguyên –thời La Mã đóng chiếm. Nghề trồng nho bắt đầu phát triển ở thành phố Marseille – thuộc địa của người La Mã. Đế Chế La Mã đã cho phép những vùng ở phía Nam nước Pháp sản xuất rượu. Thánh Martin de Tours (316 – 397) đã tham gia tích cực truyền bá đạo Cơ Đốc Giáo và nghề trồng nho. Trong suốt thời Trung Cổ loạn lạc, những thầy tu đã có công giữ gìn các ruộng nho và kỹ thuật làm rượu. Các tu viện có sự bảo hộ cao, nguồn lực lao động dồi dào để sản xuất rượu vang cho những dịp lễ và nhờ nó tăng thêm thu nhập đáng kể. Trong thời kỳ đó, những ruộng nho lớn thường thuộc về các nhà thờ thiên chúa giáo và rượu của họ luôn được coi là rượu cao cấp. Sau này, giới quý tộc mở rộng thêm diện tích trồng nho. Tuy nhiên, cuộc cách mạng Pháp đã lãnh đạo phong trào tịch thu bớt ruộng đất của nhà thờ, giới quý tộc chia cho nhân dân. Chính vì lý do này, sản lượng nho cũng tăng lên. Mặc dù thời đó Bordeaux đã xuất khẩu rượu nhưng mãi đến năm 1850 hầu hết rượu của Pháp vẫn chỉ phục vụ cho nhu cầu nội địa. Do sự phát triển của ngành đường sắt và đường bộ, chi phí vận chuyển giảm nhờ đó mà lượng rượu xuất khẩu cũng tăng lên đáng kể.
         Rượu nho có những mối liên hệ mật thiết với Thiên chúa giáo. Tại Do Thái , nơi phát sinh ra Thiên chúa giáo các vị tổ phụ của dân tộc này từ thời thượng cổ đã biết dung rượu vang để tế lễ Đức Chúa Trời. Về sau rượu vang không thể thiếu trong các thánh lễ misa của Thiên chúa giáo.

         Có tới trên 6000 loại nho nhưng chỉ có khoảng 6 loại nho được dung để sản xuất ra tới 90% các loại rượu vang trên thế giới (gồm 3 loại nho trắng và 3 loại nho đỏ). Ba loại nho trắng là Chardonay, Sauvignon blanc và Riesling. Ba loại nho đỏ là Cabernet Sauvignon, Merlot và Pinot noir.

Nước Pháp sử dụng hệ thống appellation để chỉ định nơi xuất xứ, phân ra bốn cấp độ chất lượng như sau:
  • Vin deTABLE (rượu vang thông thường): không chỉ định xuất xứ.
  • Vin de Pays (rượu vang địa phương): được phép chỉ định xuất xứ.
  • Vin Délimité de Qualité Superieure (rượu vang được xác định chất lượng cao): thường viết tắt là VDQS.
  • Appellation d’Origine Contrôlée (nhãn hiệu xuất xứ được kiểm soát): thường viết tắt là AOC, rượu vang được sản xuất và kiểm định theo những tiêu chuẩn khắt khe nhất.
Vang trắng có các mùi hương đặc trưng sau:
- Chardonnay: Hương hạnh nhân, dưa bở, chanh, bưởi, chuối.

- Chenin Blanc: Hương táo, hạnh nhân, quít.
- Các hương liệu của gia vị: Hương hoa trà, nhãn, bồ đề.

- Gruener Veltiner: Hương ớt Đà Lạt, hạt tiêu.
- Pinot Blanc: Hương lê, trà.

- Pinot Gris: Hương khoai tây, bánh mỳ, hạnh nhân cháy, mỡ lợn muối.
- Riesling: Hương anh đào, mơ, dưa bở, xăng.

- Sauvignon Blanc: Hương ớt Đà Lạt, cà chua xanh, phúc bồn tử đen, dâu.
- Welschriesling: Hương táo, hương keo.

Các mùi hương đặc trưng của vang đỏ là:
- Blauer Zweigelt: Hương đào, cẩm chướng.

- Blaufraenkisch: Hương ngũ da bì, anh đào, xạ hương, sôcôla đắng.
- Cabernet Franc: Hương dâu xanh, hạt tiêu xanh, nước ớt Đà Lạt, cỏ.

- Cabernet Sauvignon: Hương sơ ri, gỗ bá hương, tiêu Thuỵ Sỹ, cẩm chướng, bạch đàn.
- Merlot: Hương dâu, sơ ri, mận, xạ hương

- Pinot Noir: Hương ngũ da bì, mứt đào nhừ, mận, cẩm chướng.
- Pinotage: Hương anh đào chua, mận, chuối, tiêu, quế.

- Syrah (Shraz): Hương phúc bồn tử Thụy Sĩ, nấm củ, đồng thảo.
- Tempranillo: Hương dâu (quả mâm xôi), quất, gỗ đàn hương, xạ hương.

- Zinfandel: Phúc bồn tử Thụy Sĩ, nước mận, chuối, tiêu.
Pháp là nơi sản xuất rượu vang nổi tiếng từ xa xưa. Các vùng sản xuất vang nổi tiếng ở Pháp là Bordeaux, Bourgogne, Champagne, Loire, Rhône, Alsace,Cognac, một số vùng nhỏ ở Nam và Tây nam nước Pháp.

Còn có thể nói toàn nước Ý là cả một vườn nho lớn.  Có tới 20 vùng sản xuất rượu vang ở Ý nhưng quan trọng nhất là ba vùng: Piedmont (ở miền Tây Bắc), Veneto (ở miền Đông Bắc) và Tuscany (ở miền Trung).
Tây Ban Nha mỗi năm làm ra khoảng 2 tỷ gallons rượu vang ( khoảng 3785 triệu lít). Dân Tây Ban Nha trồng nho và làm rượu vang khắp dất nước nhưng nhiều nhất là ở miền Trung, nhất là các vùng gần thành phố Barcelona, Sherry.

Hoa Kỳ đứng thứ tư về sản lượng rượu vang (sau Pháp, Ý và Tây Ban Nha) . Người Mỹ mỗi năm dùng hết khoảng 2000 triệu lít rượu vang. Sản xuất rượu vang là một ngành công nghiệp phát đạt ở miền Bắc tiểu bang New York và vùng duyên hải California.
Nhiều nước khác cũng sản xuất rượu vang với sản lượng thấp hơn: Bồ Đào Nha, Đức, Australia, New Zealand, Chilê, Argentina.

Căn cứ vào phẩm chất và nồng độ cồn, nồn độ đường, mức độ sủi bọt mà người ta thường chia rượu vang thành các loại sau đây:
.Vang đỏ: làm từ nho đỏ nên có màu đỏ thẫm

.Vang hồng (Rosé): màu hồng đào do ngâm với vỏ nho chỉ vài giờ chứ không phải vài tuần lễ như vang đỏ.
.Vang trắng: làm từ nho màu xanh nhạt

. Champagne (Sâm banh): rượu vang sủi bọt, áp suất cao do lên men trong các chai thành dầy, khi mở nút có tiếng nổ và sủi bọt
.Rượu ngọt: hàm lượng đường khá cao. Có ba loại:

-Rượu đông đá (Ice wine): ép nho đông đá vào mùa đông, tạo loại rượu có độ cồn cao và ngọt đậm
-Rượu Sauternes: dùng nho có nấm Botrytis ký sinh, vị ngọt đậm đà.

-Rượu cao độ: độ cồn cao tới 17-18%, vị ngọt đậm (vang Madeira. Vang Port hay Porto)


 Hàng năm vào dịp Tết ta thấy xuất hiện khá nhiều loại rượu vang ngoại nhập (bên cạnh vang Việt Nam mang thương hiệu Vang Đà Lạt, Vang Thăng Long). Có những loại rượu vang ngoại giá từ 120 -500 nghìn đồng, nhưng cũng có những loại giá trên 1 triệu đồng 1 chai. Chẳng hạn các loại Sena Chadwick giá 3035 nghìn đồng, loại Chateau Batailley 2006 Pauillac giá 2320 nghìn, loại Norton Gernot Langes giá 2180 nghìn… Chúng ta nên tăng cường sử dụng vang nội để khuyến khích ngành rượu vang nho (Vang Đà Lạt) hay ngành rượu vang từ các hoa quả khác (Vang Thăng Long...) ngày càng phát triển với giá bán phù hợp với đông đảo dân chúng.


  Kết quả hình ảnh cho white and red wine


  Kết quả hình ảnh cho white and red wine


  Hình ảnh có liên quan