Thứ Năm, 30 tháng 11, 2017

BGD& ĐT LÊN TIẾNG VỀ ĐỀ "XUẤT TIẾNQ VIỆT"

Bộ Giáo dục lên tiếng việc “đề xuất Tiếq Việt“ gây sốc dư luận




Theo đại diện Bộ GD-ĐT, đơn vị này không đủ thẩm quyền và không có dự kiến áp dụng bất cứ một phương án nào về cải tiến chữ viết quốc gia trong giai đoạn hiện nay.






Tin từ báo Vietnamnet cho hay, đại diện Bộ GD-
ĐT đã lên tiếng về đề xuất cải tiến chữ viết tiếng Việt của PGS.TS Bùi Hiền.
Đại diện Bộ GD-ĐT cho biết, "ý kiến của PGS.TS Bùi Hiền về cải tiến chữ Quốc ngữ là đề xuất trong một hội thảo khoa học của ngành Ngôn ngữ học. Bộ GD-ĐT trân trọng tất cả các công trình nghiên cứu và đề xuất nghiêm túc của các nhà khoa học".
"Tuy nhiên, để đưa một đề xuất liên quan đến vấn đề cải tiến chữ viết của ngôn ngữ quốc gia vào thực tế cần có sự thẩm định của các chuyên gia, ý kiến của các tầng lớp nhân dân và sự xem xét, quyết định của Quốc hội, Chính phủ.
Bộ GD-ĐT không đủ thẩm quyền và không có dự kiến áp dụng bất cứ một phương án nào về cải tiến chữ viết quốc gia trong giai đoạn hiện nay", nguồn trên dẫn thông tin từ đại diện Bộ GD-ĐT.
Trước đó, PGS Bùi Hiền bày tỏ trên báo Báo, ông rất tiếc vì đề xuất cải tiến chữ viết đưa ra không đúng lúc, không đúng thời và không đúng cách nên gây một sự hiểu lầm trong xã hội.
Theo ông, ngôn ngữ bao gồm chữ viết và tiếng nói và ở đây ông chỉ nghiên cứu và đề xuất cải tiến chữ viết trên cơ sở những nghiên cứu bất hợp lý về hình thức thể hiện, chứ không phải nội dung ý nghĩa.
PGS Bùi Hiền chia sẻ, hiện ông mới chỉ nghiên cứu xong một nửa của công trình này. Dù có nhiều ý kiến trái chiều nhưng ông sẽ làm đến cùng.
"Đến tháng 3/2018, tôi sẽ báo cáo nốt phần sau để cho các đồng nghiệp tham khảo, đóng góp ý kiến và góp ý. Tôi sẽ mời báo chí đến dự, nếu các bạn nghe và thấy rằng đó là vấn đề khả thi có thể đưa ra trước công luận để lấy ý kiến", PGS.TS Bùi Hiền thông tin trên báo Báo.
đăng bởi: h.a.i.p.h.o.n.g...t.i.n.t.u.c...v.n.
Nguồn đọc thêm: http://www.xaluan.com/modules.php?name=News&file=article&sid=1981754#ixzz4zvZT9NvQ
http://www.xaluan.com/raovat

Thứ Ba, 14 tháng 11, 2017

AI LÀ "CHA ĐẺ" CỦA CHỮ QUỐC NGỮ ?

AI LÀ "CHA ĐẺ" CHỮ QUỐC NGỮ ?
Alexandre de Rhodes
Alexandre de Rhodes không phải là “cha đẻ” chữ quốc ngữ?
TTO - Tại hội thảo “Dinh trấn Thanh Chiêm và chữ quốc ngữ” do UBND tỉnh Quảng Nam tổ chức ngày 24-8 ở huyện Điện Bàn, nhiều ý kiến cho rằng giáo sĩ Francisco de Pina là người đặt nền tảng cho việc ra đời của chữ quốc ngữ.
Ai có công đầu với chữ quốc ngữ?
Thuở ban đầu của chữ quốc ngữ
Bàn chuyện cải tiến, thống nhất chữ quốc ngữ
“Nhiều ý kiến tham luận tại hội thảo không cho rằng giáo sĩ de Rhodes là “cha đẻ” của chữ quốc ngữ như quan điểm của nhiều học giả kỳ cựu trước đây
Tiến sĩ Trần Đức Anh Sơn
Hội thảo thu hút hàng trăm nhà khoa học, sử học, chuyên gia trên khắp cả nước tham dự.
Tại hội thảo, ông Lê Văn Thanh - phó chủ tịch UBND tỉnh Quảng Nam - cho biết những nghiên cứu của các nhà khoa học suốt gần 15 năm qua đã đưa ra những kết luận khoa học có giá trị về vai trò, công lao của Francisco de Pina (người Bồ Đào Nha) và Alexandre de Rhodes (người Pháp) trong sáng tạo, hoàn thiện chữ quốc ngữ vào đầu thế kỷ 17.
Theo tiến sĩ Trần Đức Anh Sơn - phó viện trưởng Viện Nghiên cứu phát triển kinh tế - xã hội Đà Nẵng, hội thảo thu hút 69 tham luận là những nghiên cứu khoa học đầy tâm huyết, giàu sức thuyết phục.
Trong đó nhiều nghiên cứu khẳng định vai trò tiên phong của giáo sĩ Francisco de Pina trong việc sáng tạo chữ quốc ngữ và giáo sĩ Alexandre de Rhodes là người có công hoàn thiện chữ quốc ngữ thông qua việc tu chỉnh, biên soạn và xuất bản hai cuốn sách quan trọng là Từ điển Việt - Bồ - La và Phép giảng tám ngày vào năm 1651.
Nhà sử học Dương Trung Quốc cho biết có lẽ một thời gian rất dài chúng ta nhắc đến Alexandre de Rhodes có vai trò hết sức quan trọng trong sự đóng góp phát triển chữ quốc ngữ, và quan trọng là di cảo ông để lại.

Quả thật trong điều kiện tư liệu lúc đó, ông Rhodes là người đóng góp rất lớn. Nhưng sau này khi chúng ta có điều kiện nghiên cứu nhiều hơn, những công trình đã tiếp cận các nguồn tư liệu rất khó tiếp cận thì mới thấy được ông Francisco de Pina là người không những đi trước mà còn để lại nhiều dấu ấn, bằng chứng lịch sử để thấy ông là người sớm nhất, giỏi tiếng Việt nhất thời điểm ấy. Vì thế chúng ta tôn vinh một cách công bằng nhưng không phải vì thế mà hạ thấp người này, nâng cao người khác.
“Nhưng ngay chính trong sách ông Alexandre de Rhodes viết cũng nói rất rõ là viết từ điển dựa vào thành quả của những người đi trước. Điều đó cho thấy sự hình thành, phát triển chữ quốc ngữ có sự đóng góp của nhiều thế hệ, là cả một quá trình, từ chỗ ý tưởng đầu tiên đến thử nghiệm đầu tiên, rồi có cả một công trình đi vào đời sống” - ông Dương Trung Quốc nhấn mạnh.

Theo thông tin tại hội thảo, năm 1617 giáo sĩ Francisco de Pina được cử vào xứ Đàng Trong giúp đỡ Nhật kiều công giáo ở Hội An. Sau đó giáo sĩ chú tâm nghiên cứu, sáng tạo chữ quốc ngữ. Và tại Thanh Chiêm, nơi được Chúa Tiên Nguyễn Hoàng chọn làm dinh trấn của Quảng Nam, đã ra đời trường dạy quốc ngữ đầu tiên.
DIZIKIMI sưu tầm

NGUỒN GỐC CHỮ QUỐC NGỮ

NGUỒN GỐC CHỮ QUỐC NGỮ
LTS: Sau khi Báo NLĐ Chủ nhật ngày 7-1-2007 đăng bài “Đi tìm nguồn gốc chữ quốc ngữ” của GS-TS Phạm Văn Hường, tòa soạn đã nhận được nhiều ý kiến trao đổi rất khác nhau. Tòa soạn chân thành cảm ơn những ý kiến của các nhà nghiên cứu, bạn đọc khắp nơi gửi về. Nhận thấy đây là một đề tài nghiên cứu vẫn đang còn nhiều tranh luận, chưa thể có kết luận cuối cùng, chúng tôi chọn đăng hai bài viết của tác giả Phan Quang về đề tài này để bạn đọc tham khảo
Quá trình hình thành chữ quốc ngữ kéo dài hơn ba trăm năm, tính từ ngày những giáo sĩ phương Tây đầu tiên đặt chân lên đất Việt tiếp xúc với người bản địa cho đến khi tờ báo tiếng Việt đầu tiên ra đời với bộ chữ in có dấu thanh được thửa ở châu Âu riêng cho nó. Theo các nhà sử học (1), đội thương thuyền đầu tiên của Bồ Đào Nha cập vịnh Đà Nẵng năm 1516, chỉ năm năm sau khi họ đổ quân lên chiếm Malacca (eo biển Mã Lai). Còn ở Đàng Ngoài thì hình như muộn hơn nhiều, và đến từ Macau (Trung Quốc) mà trước đó họ cũng đã chiếm làm thuộc địa. Dĩ nhiên, như chúng ta biết, đến năm 1651 mới có Từ điển Việt - Bồ Đào Nha - Latinh xuất bản tại Roma, song để có cuốn từ điển này (ai là tác giả đích thực vẫn còn là điểm tồn nghi), hẳn phải có nhiều giáo sĩ khi đặt chân lên đất Việt từng thử dùng mẫu tự Latinh để ghi cách phát âm mà học tiếng bản địa. Tuy vậy, ngay sau khi đã được định hình một cách tương đối có hệ thống, chữ quốc ngữ vẫn chỉ quanh quẩn trong phạm vi nhà thờ Thiên Chúa giáo. Phải đợi đến ngày Gia Định báo, tờ báo đầu tiên in bằng chữ quốc ngữ ra mắt bạn đọc (năm 1865) thì nó mới đi vào công chúng tương đối rộng; và thời gian sau đó, các trường dạy chữ quốc ngữ lần lượt mở cửa, chữ quốc ngữ thật sự vào cuộc sống của xã hội Việt Nam.
Chữ Quốc ngữ: Công trình sáng tạo tập thể
Ai là những người đi tiên phong và có công đầu trong việc định hình chữ quốc ngữ? Vấn đề này đã tốn khá nhiều giấy mực. Có người cho rằng công lớn thuộc về hai giáo sĩ người Bồ Đào Nha là Gaspar do Amiral và Antonio Barbosa. Lại có ý kiến cho rằng các tác giả đầu tiên là ba giáo sĩ người Ý Francesco Buzumi và hai đồng sự trẻ hơn của ông là Francesco de Pina và Cristoforo Borri (2). Giáo sĩ Francesco Buzumi cùng một giáo sĩ người Bồ tên là Diego Carvalho đến miền Nam nước Việt năm 1615. Thời gian này các nhà truyền giáo phương Tây bị các tướng quân (shogun) đang nắm chính quyền tại Nhật Bản xua đuổi nghiêm ngặt. Giáo đoàn dòng Tên Jesus (Jésuites) hướng về Đàng Trong của Việt Nam, nơi đây các thương nhân Nhật đã hình thành một cơ sở giao thương thịnh vượng ở Hội An. Chín năm sau, 1624, Alexandre de Rhodes mới được phái đến cùng năm giáo sĩ khác cập bến Hội An.
Tuyệt đại bộ phận các nhà nghiên cứu phương Tây cũng như Việt Nam từ trước tới nay không ai quy công đầu cho một tác giả đơn nhất mà đều khẳng định chữ quốc ngữ là sáng tạo tập thể, mỗi người góp phần một ít; những vị đi trước mở đường, những người kế tiếp hoàn thiện, nâng cao. Hình thành chữ quốc ngữ là một quá trình. Hoàn thiện nó cũng là một quá trình chỉ có thể tạm ngừng chứ không kết thúc, vì nó là một cơ thể sống đang phát triển. Công lao đặt nền móng chắc chắn thuộc về các giáo sĩ và tín đồ Thiên Chúa giáo người Bồ Đào Nha, người Tây Ban Nha, người Ý, người Pháp, người Hà Lan... và có cả người Việt Nam - tại sao không? Bởi, theo thiển nghĩ của chúng tôi, người Việt chứ còn ai khác đã dạy tiếng Việt cho các giáo sĩ nước ngoài, và một khi đã có một số tín đồ bản địa, cho dù hiếm hoi, tiếp cận tiếng La tinh, thì nhất định họ có góp phần vào việc ghi âm chữ quốc ngữ bằng thứ mẫu tự ấy. Người phương Tây ra nước ngoài, nhất là vào thời bành trướng của chủ nghĩa thực dân, ít người tránh được thiên hướng kỳ thị người bản địa. Nếu chúng ta tin lời của chính giáo sĩ Alexandre de Rhodes, thì các nhà truyền giáo người Bồ, người Ý, người Tây Ban Nha không muốn nâng một số giáo đồ Việt Nam lên hàng chức sắc. Có nhà sử học đã đặt vào miệng ông câu nói: “Người bản xứ có thể tử vì đạo, tại sao họ không thể làm giáo sĩ?”. Dù sao, tín đồ Việt Nam đầu tiên là Philippo Bỉnh mãi tới năm 1820 mới được tấn phong linh mục tại Lisbonne, thủ đô Bồ.
Sao chỉ là Alexandre de Rhodes?
Tại sao trong số tập thể tác giả kia, một tên tuổi được nhắc đến, được vinh danh nhiều nhất lại là giáo sĩ Alexandre de Rhodes, người Pháp? Theo các nhà nghiên cứu có uy tín như Léopold Cadière, Paul Mus hoặc muộn hơn, Jean Lacouture, trước hết không chỉ bởi ông có công cho xuất bản cuốn Từ điển Việt - Bồ - Latinh và viết cuốn Ngữ pháp tiếng Việt đầu tiên, mà chủ yếu vì “Alexandre de Rhodes nếu không phải là người sáng tạo thì là người đầu tiên sử dụng và quảng bá mạnh mẽ chữ quốc ngữ” (Jean Lacouture). Còn Paul Mus thì đánh giá Alexandre de Rhodes, vốn là người có tư chất nhà ngôn ngữ học thạo mười hai thứ tiếng, đã “tiếp cận chữ quốc ngữ trên bình diện khoa học. Ông đã có công hoàn chỉnh cách viết chữ quốc ngữ”(3). Ở đây có một điểm dù sao cũng đòi hỏi chúng ta phải ít nhiều thận trọng. Ba vị nói trên, những nhà nghiên cứu uyên thâm, đều là người Pháp. Mà, nói mạn phép, người Pháp cho dù làm khoa học, dường như vẫn mang “máu đại Pháp” trong người, bao giờ cũng tìm cách tôn vinh đồng bào của mình trước hết; đặc biệt từ thế kỷ gọi là “ánh sáng”, thế kỷ của các nhà tư tưởng, văn hóa, khoa học lỗi lạc, thế kỷ mà ánh sáng của Cách mạng Pháp 1789 thật sự tỏa sáng địa cầu, trở về sau. Đấy là chưa nói những trường hợp mang ý nghĩa chính trị rõ rệt. Vào những năm 40 thế kỷ 20, khi chủ nghĩa thực dân Pháp ở Việt Nam thật sự lung lay trước phong trào cách mạng đang lên và sự bành trướng của Nhật Bản giương cao ngọn cờ Đại Đông Á đầy tính mị dân của họ, nhiều vị cao niên thuộc thế hệ nay gọi là 2X, 3X ít nhiều đều có đọc các tác phẩm được xuất bản với ngân sách hào phóng do nhà cầm quyền thực dân bỏ ra để xây dựng “Tủ sách Alexandre de Rhodes”. Trong bối cảnh ấy, rất dễ hiểu tại sao hai giáo sĩ được tôn vinh nhất ở Đông Dương là Alexandre de Rhodes (A Lịch Sơn Đắc Lộ) và giám mục D’Adran, tên thật là Pigneau de Béhaine (Bỉ Như Bá Đa Lộc), người có công phò tá Hoàng tử Cảnh sang Paris cầu viện, giúp Nguyễn Ánh đánh nhà Nguyễn Tây Sơn, “nhất thống sơn hà” để hơn một trăm năm mươi năm sau toàn bộ sơn hà sẽ chịu sự đô hộ của người Pháp.
Alexandre de Rhodes thực chất là người như thế nào?
Vấn đề này cũng đã tốn khá nhiều giấy mực. Có người bảo người Việt Nam nên dựng tượng đồng bia đá cho ông. Có người quy kết - phần nào chắc chẳng oan - Alexandre de Rhodes là kẻ có tội với dân tộc Việt Nam, vì giáo sĩ này là người đầu tiên vận động quyết liệt với triều đình vua Louis 14 để dọn đường cho thực dân Pháp sang xâm chiếm Đông Dương xa xôi. Hơn thế, về tư cách, Alexandre de Rhodes là kẻ “đạo văn”, bởi đã mang bản thảo cuốn Từ điển Việt - Bồ - Latinh do hai nhà truyền giáo Bồ khi rời Macau để lại nhà thờ San Pauli về Vatican cho xuất bản và đứng tên mình. Đã thế, ông còn ngang nhiên đứng tên tác giả một cuốn hồi ký của người khác, v.v... Do tư cách không đàng hoàng, khi các giáo sĩ Pháp được nhà vua với sự chấp thuận của Giáo hội La Mã phái sang Viễn Đông, không có tên Alexandre de Rhodes trong đoàn ấy. Ngược lại, ông gần như bị lưu đày sang Ba Tư để rồi qua đời tại đó.
Những sự đánh giá ấy chắc hẳn ít nhiều có căn cứ lịch sử. Coi các bản Trần thuật của Alexandre de Rhodes về những chuyến đi Viễn Đông của ông, người đọc ngày nay ai cũng nhận thấy tác giả khoa trương thái quá về công đức của mình, đến nỗi chính các nhà sử học đồng bào của ông cũng khó nén được nụ cười nửa miệng.
Alexandre de Rhodes sinh năm 1591 ở thành phố Avignon, miền Nam nước Pháp, từ một gia đình gốc Do Thái chuyên buôn tơ lụa sang Viễn Đông. Mẹ người lai Ý. Từ nhỏ ông đã mơ đến miền đất hứa phương Đông giàu tài nguyên quý hiếm như Ấn Độ, Trung Hoa... Trở thành giáo sĩ, ông đến Macau trên một chiếc tàu buôn Bồ Đào Nha. Thời ấy, đội thương thuyền của Bồ mạnh nhất thế giới. Người Bồ vẫn huênh hoang: “Không có tàu buôn Bồ, không có hàng tạp hóa Bồ, làm gì có các giáo sĩ dòng Tên!”(4). Ông đến Đàng Trong lần đầu năm 33 tuổi và sống tại đây trước sau bảy năm, trước khi vĩnh viễn rời Viễn Đông. Ông có tư chất và kiến thức một nhà ngôn ngữ học. Khi đã là một giáo sĩ, ngoài tiếng Ý họ ngoại, trước lúc lên tàu sang Viễn Đông, ông còn dành thời gian học tiếng Bồ. Cuối đời, bị “nửa lưu đày” sang Ba Tư, ông còn học để sử dụng thành thục ngôn ngữ thứ 13 là tiếng Ba Tư. Điều đó cho phép chúng ta lý giải một phần tại sao Alexandre de Rhodes thường hay được viện dẫn - ngoài những nguyên nhân vừa nói ở trên - khi các học giả bàn về ai là những người sáng tạo chữ quốc ngữ.
Sự cạnh tranh của chủ nghĩa thực dân Bồ - Pháp
Về nguyên nhân tại sao Alexandre de Rhodes không được trở lại Viễn Đông cùng với đoàn giáo sĩ Pháp mà ông có công vận động thành lập, một số nhà sử học giải thích tại sự cạnh tranh giữa chủ nghĩa thực dân Bồ và chủ nghĩa thực dân Pháp.
Thời kỳ đầu, với việc nhà hàng hải người Bồ Đào Nha Magellan phát hiện quần đảo Philippines ở Viễn Đông (1521), nhà hàng hải người Bồ Christophe Colomb (Colombus) phát hiện châu Mỹ (1492), có thể coi như người Bồ Đào Nha tạm làm bá chủ các đại dương. Tuy nhiên, thời gian này không kéo dài. Sự cạnh tranh giữa các quốc gia châu Âu ngày càng quyết liệt. Quần đảo Indonesia thoạt tiên do người Bồ khám phá, rơi vào tay người Hà Lan. Chủ nghĩa thực dân Tây Ban Nha và Pháp cũng trỗi dậy, cùng ganh đua với nhau và giành giật với Bồ, hạ uy thế của Bồ. Trong bối cảnh ấy, “Alexandre de Rhodes không quên mình là người Pháp” (lời nhà sử học Jean Lacouture). Ông vận động ráo riết để người Pháp có mặt sớm ở Viễn Đông. Dù chịu ơn người Bồ, ông dám vượt mặt các bậc bề trên trong giáo đoàn và tìm cách liên hệ trực tiếp với Tòa thánh Vatican, v.v... Vì những lý do đó, “ông bị triều đình Bồ Đào Nha coi như một kẻ thù của nước này” (Jean Lacouture).
Thôi thì hãy để các nhà sử học, nhà ngôn ngữ học... tiếp tục tranh luận và lý giải. Đối với người Việt Nam chúng ta, bất kỳ ai có đóng góp cho sự phát triển của dân tộc Việt, chúng ta đều hàm ơn và hậu thế tôn vinh những người nước ngoài có cống hiến trên mặt ấy tùy công lao đóng góp của họ, cho dù họ là người thế nào. Việc một số nơi ở Bắc Bộ có đền thờ thái thú Sĩ Nhiếp (thế kỷ 2 trước Công nguyên), người truyền bá Nho giáo vào đất Giao Châu (5), là thí dụ sớm nhất. Tôi nghĩ không phải ngẫu nhiên mà thành phố mang tên Hồ Chí Minh hiện nay vẫn còn nguyên hai con đường song song, một mang tên nhà nho Hàn Thuyên và một mang tên giáo sĩ Alexandre de Rhodes. Cũng không phải không hàm chứa ý nghĩa cao cả mang tính tượng trưng, khi chính giữa hai con đường song hành ấy có đại lộ mang tên Lê Duẩn dài hơn, rộng hơn; ba con đường song hành vượt qua đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa để đàng hoàng đi vào cổng chính hoành tráng của Hội trường Thống Nhất - Dinh Độc lập trước năm 1975.
Léopold Cadière
Giáo sĩ người Pháp, từng sống ở Việt Nam 63 năm, một trong những nhà Việt Nam học tên tuổi đầu tiên của thế giới. Chủ trương tờ tập san ra hằng tháng có tên Kỷ yếu những người bạn của cố đô Huế (BAVH - trước đây quen gọi là Đô thành hiếu cổ) xuất bản từ năm 1914 đến 1944, gồm 121 tập khổ lớn. Léopold Cadière đã công bố khoảng 250 công trình biên khảo về lịch sử, địa lý, văn hóa, phong tục, tập quán, tín ngưỡng các dân tộc ở Việt Nam. Những công trình của ông về chữ quốc ngữ rất công phu. Riêng một việc tìm hiểu đâu là bức chân dung đích thực của Alexandre de Rhodes, ông đã trở về du khảo tại Pháp và Bỉ trong hơn một năm (1928-1929) và tìm ra 9 bức chân dung khác nhau để so sánh.
Paul Mus
Nhà Á châu học rất nổi tiếng, thành viên Trường Viễn Đông Bác cổ Pháp từ 1927 đến 1944. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, giảng dạy tại Đại học Collège de France, Paris và Đại học Yale, Hoa Kỳ. Các công trình của ông thường được các nhà Việt Nam học nước ngoài viện dẫn, trong đó có các cuốn Việt Nam, nghiên cứu xã hội học về một cuộc chiến tranh, 1952; Số phận của Liên hiệp Pháp, 1954; Chiến tranh không có gương mặt, 1961; Hồ Chí Minh, Việt Nam, châu Á, 1972... Sau khi ông qua đời, các bài giảng của ông tại Đại học Yale được một môn đệ, tiến sĩ John McAlister, tập hợp và xuất bản: Người Việt Nam và cuộc cách mạng của họ, 1972.
Jean Lacouture
Nhà báo, nhà văn, nhà sử học Pháp, tác giả nước ngoài đầu tiên viết tiểu sử Chủ tịch Hồ Chí Minh, 1967, tái bản 1976. Ông được coi như nhà viết tiểu sử danh nhân lớn nhất của Pháp ngày nay. Tác giả nhiều bộ tiểu sử về Léon Blum, De Gaulle, Pierre Mendès France, Francois Mitterrand, Francois Mauriac, Nasser... Bộ sách Những giáo sĩ Dòng Tên, mà ông gọi là “cuốn tiểu sử về nhiều người”, 1991-1992, hai tập, dày tổng cộng 1.100 trang khổ lớn. Năm 1946, từng làm tùy viên báo chí của tướng Leclerc ở Đông Dương, được nhiều lần gặp và phỏng vấn Chủ tịch Hồ Chí Minh, Thủ tướng Phạm Văn Đồng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp..., Jean Lacouture được coi là một trong những người thành thạo nhất của Pháp về thời cuộc Việt Nam
DIZIKIMI sưu tầm

Thứ Hai, 13 tháng 11, 2017

BÀI THƠ HOA SEN CỦA PHÙNG QUÁN

Bài thơ Hoa Sen của Phùng Quán/ Theo Ngô Minh


TRONG BÀI THƠ HOA SEN,
PHÙNG QUÁN KHÔNG HỀ NHÂM LẪN !
Ngô Minh

Bài thơ Hoa sen của nhà thơ Phùng Quán (Thơ Phùng Quán, NXB Văn học, 2003) mấy năm nay gây ra nhiều cuộc tranh luận sôi nổi, gay gắt. Năm 2008, nhà văn Hoàng Thái Sơn ở Quảng Bình cũng đã có bài viết "Về một bài thơ của Phùng Quán" đăng ở Tạp chí Thơ số 3 ( 2008) và đăng lại trong Tạp chí Nhật Lệ số 160 ( tháng 7 - 2008) . Nhà văn Hoàng Thái Sơn cho rằng khi sáng tác bài thơ Hoa sen, Phùng Quán đã có "sự nhầm lẫn rất hồn nhiên" ,"một mình một ngựa quay lưng, ngược đường với triệu triệu đồng bào" yêu quý bài ca dao.

Sau đó nhà thơ Mai Văn Hoan. Thạc sĩ văn chương, giáo viên dạy chuyên văn Trường Quốc Học-Huế, đã có  bài viết trao đổi lại rất chí tình. Cuộc bàn luận về bài thơ Hoa Sen của Phùng Quán của hai nhà văn Việt Nam diễn ra trong nhiều số tạp chí THƠ sau đó. Nhà thơ Mai Văn Hoan thì cho rằng :” Phùng Quán chỉ mượn bài ca dao "Trong đầm gì đẹp bằng sen" để viết nên một bài thơ theo cảm xúc chủ quan của mình. Phải nói là anh đã tìm được một tứ thơ mạnh, gây ấn tượng, rất phù hợp với phong cách "thơ quãng trường" của anh. Phát hiện của anh về bài ca dao trên cũng khá bất ngờ và độc đáo. Từ trước đến nay, duy nhất chỉ có Phùng Quán, bằng ngôn ngữ thi ca, đã mạnh dạn đặt lại vấn đề gốc gác bài ca dao một cách  thuyết phục và truyền cảm. Phát hiện của nhà thơ đã làm không ít người phải giật mình... Cái chủ yếu là nhà thơ của chúng ta mượn bùn để nói đến Nhân dân! 

...” Đọc bài thơ  Hoa sen của Phùng Quán ai cũng biết tác giả nhằm vào "phường bội nghĩa vong ân". Bọn chúng, theo nhà thơ:"vốn con cái của giai cấp cùng khổ / Chúng chòi lên cuộc đời quyền lực vàng son / Nghĩ đến mẹ cha chúng xấu hổ / Chúng mưu toan giấu che từ bỏ / Nói gần xa chúng mượn chuyện sen". Phùng Quán căm ghét là căm ghét cái bọn phản trắc đó. Phùng Quán vạch mặt chỉ tên là vạch mặt chỉ tên lũ vong ân bội nghĩa đó, chứ đâu phải là hoa sen. Phùng Quán đâu có nhầm lẫn. Tuy diễn tả bằng thơ nhưng lập luận của anh khá chặt chẽ, khá lôgích và rất thuyết phục. Tuy diễn tả bằng thơ nhưng lập luận của anh khá chặt chẽ, khá lôgích và rất thuyết phục. Phùng Quán đứng về phía nhân dân để vạch trần bản chất phản trắc của bọn người vong ân bội nghĩa chứ đâu có quay lưng lại với triệu triệu đồng bào ! “

Mới đây, trên trannhuong.com có bài bình bài thơ Hoa sen của Phùng Quán của tác giả Đường Văn. Tác giả Đường Văn cho rằng: “Đọc kỹ, tôi cho rằng, ở đây, Phùng Quán đã hiểu không đúng bản chất tư tưởng bài ca dao cũng như tư tưởng và tính cách của tác giả của nó. Xuất phát từ quan niệm giai cấp xã hội rất cực đoan và có phần bảo thủ, dung tục để phân tích tác phẩm, đánh giá thiên lệch tác giả và kết án ông ta (giả định) là kẻ vong ân bội nghĩa, phản trắc, xảo quyệt, tráo trở, tinh vi mượn sen nói chuyện người... thật xấu xa, đáng căm ghét, ghê tởm, không hiểu vì sao Phùng Quán đã suy diễn, khái quát, áp đặt và kết án bài thơ – ca dao cùng tác giả của nó một cách cực đoan, chủ quan, thiên lệch và sai lầm? ( NM tô đậm ). Sau khi bài viết của Đường Văn  được đăng tài, một số bạn đọc đã comments với lời lẽ chì chiết hơn về những ý thơ  của Phùng Quán trong bài thơ Hoa Sen. Bạn đọc Nguyễn Hiếu viết :” Bài bình thơ Phùng Quán hay, có phát hiện, bằng giọng văn kiên quyết, phẫn nộ được giấu khá kĩ dưới sự bình tĩnh của chuyên môn. Hay nhất là vạch ra được sự cố chấp và có vẻ hơi tiểu nhân của Phùng quán khi nói về một câu ca dao dân gian toàn bích. Tôi cũng hơi lạ sao PQ lại có lúc lẩm cẩm như thế? Cám ơn ĐV vì tôi chưa đọc bài thơ này. Nhờ bạn mà biết thôi! Hay PQ dốt, hay PQ cố chấp… để rồi chửi mèo quèo chó? Tôi không hiểu!?. Còn bạn đọc xưng là Thạch Bàn, Long Biên thì  viết :” Phùng Quán lừng danh với “Vượt Côn Đảo”, “Lời mẹ dặn” khi còn rất trẻ, nhưng lại “chết thảm” với “Hoa sen” khi đã về già. Đôi khi lần mần đọc một số tác phẩm kiểu “xác chết vĩ nhân” như “Hoa sen” của Phùng Quán, tôi trộm nghĩ một cách xúc phạm rằng: “Giá như, vâng, giá như sau tác phẩm ấy, vì một lí do nào đó mà họ đột tử thì họ sẽ là vĩ nhân thật trọn vẹn!”. Tiếc thay, họ lại không có cái may mắn được “chết đúng lúc”!.
Đọc những lời phán quyết thẩm định thơ trên, tôi thấy rợn người. Tôi là người làm thơ đàn em, rất yêu thơ và nhân cách nhà thơ Phùng Quán. Tôi đã làm rất nhiều việc để góp phần làm cho mọi người hiểu đúng nhân cách và tài năng Phùng Quán hơn, giải tỏa một phần những định kiến của chế độ đối với anh, người đã:  “Ba mươi năm tôi bị dìm trong bùn-nhơ-lăng - nhục / Nhưng cuối cùng/ Quê hương đã nhận ra/ Trái – tim – thơ – trong sạch / Và gương - mặt -Thơ - bi thiết - của tôi….( Thơ Phùng Quán, NXB Văn học, 2003, tr. 211) . Đối với tôi, công bằng mà phán, thơ Phùng Quán không phải tất cả các bài đều hay, cũng có bài “thường thường bậc trung”, có bài dở, lên gân, hô khẩu hiệu.... Những bài hay nhất của Phùng Quán phải kể đến là Lời mẹ dặn, Đêm Nghi Tàm đọc Đỗ Phủ cho vợ nghe, Say, Trăng Hoàng Cung.v.v..Còn bài thơ Hoa sen là bài thơ tuy chưa toàn bích, nhưng khẩu khí, phát hiện tứ rất giỏi và có sức thuyết phục cao, hoàn toàn “đứng về phe nước mắt”(chữ của Dương Tường). Tôi đã nhiều lần nghe nhà thơ Phùng Quán đọc bài thơ này trước đông người, ai cũng xuýt xoa tán thưởng.
Tôi nghĩ đọc thơ rồi khen, chê là quyền của mỗi người, theo cái “gu” và sức cảm nhận, không  ai có quyền phản đối điều đó. Anh Phùng Quán mà còn sống , chắc anh cũng vuốt râu cười tủm tỉm , nâng cốc với những người “ phê phán” mình,  khi đọc những bài viết , những ý kiến phê bình  chê bai đó, rồi khà khà :” Miềng là rứa mà. Miềng là rứa mà...” . Làm một bài thơ để mọi người bàn luận năm này qua năm khác, cũng là một niềm vui của nhà thơ. Mới đọc qua thì chột dạ, nghĩ ông này “điên”, nhưng đọc lại nhiều lần thì thấy  thán phục :” Ông này giỏi thiệt !”. Riêng tôi, tôi có vài ý nghĩ về bài thơ Hoa Sen của Phùng Quán, không phải để tranh luận với các ý kiến của tác giả nói trên, mà để chia sẻ với  độc giả  thơ Phùng Quán.
Trước hết thơ là cảm xúc của người làm thơ trước thực tại cuộc sống. Nghĩa là tâm hồn nhà thơ rung động trước những hình ảnh sinh động của cuộc sống, mới có thơ. Từ một hình ảnh nào đó, với cảm xúc và tri giác của mình, nhà thơ phát hiện ra một tứ thơ, để nói lên tấm lòng và cái chí của mình. Như vậy, trước một  hiện thực, mỗi nhà thơ có cái cảm khác nhau, tùy theo “chỗ đứng” của mình. Ví dụ , cũng hiện thực miền Bắc những năm trước 1975, rất nghèo khổ, vì tất cả cho tuyến tuyến . Trăm thứ đều cung cấp qua tem phiếu. Người dân kêu :” Phân thì như cứt, cứt gì cũng phân”. Nhưng có nhà thơ lại viết :” Miền Bắc thiên đường của các con tôi”. Hay cũng là hiện thực chiến tranh ở nước ta  trước năm 1975, sau chiến thắng, nhiều nhà thơ ca ngợi chiến công, nhà thơ Phạm Tiến Duật lại nghĩ đến cái Vòng trắng tròn như số 0 ở trên đầu con trẻ, đó là nỗi đau chiến tranh. Nghĩa là “chỗ xuất phát tình cảm” khác nhau sẽ có cảm xúc khác nhau dẫn đến những tứ thơ khác nhau, có khi trái ngược nhau. Có lẽ cái Vòng trắng của Phạm Tiến Duật có tầm cao hơn, nhân loại hơn các bài thơ ca ngợi chiến công một chiều.Hoa sen là loài hoa đẹp. Vừa qua chúng ta đã bầu làm quốc hoa. Bài ca dao về hoa sen ca ngợi vẻ đẹp của hoa với hình tượng ám ảnh :” Nhị vàng bông trắng lá xanh”.  Nhưng Phùng Quán đọc bài ca dao lại phát hiện ra một cái tứ thơ rất lạ: “Nhưng tôi không thể nào tin được / Câu ca này gốc gác tự nhân dân / Bởi câu ca sặc mùi phản trắc / Của những phường bội nghĩa vong ân ! / Vốn con cái của giai cấp cùng khổ / Chúng chòi lên cuộc đời quyền lực vàng son / Nghĩ đến mẹ cha chúng xâu hổ / Chúng mưu toan giấu che từ bỏ / Nói xa gần chúng mượn chuyện sen...”. Phùng Quán không nhầm lẫn. Phùng Quán không cực đoan, không dốt, không suy diễn cố chấp. Phùng Quán nghĩ rất đúng, rất khoa học. Đúng một cách chí lý, chí tình. Tại sao vậy ?
Ta hãy xuất phát từ thực tế cụ thể để có thi ảnh. Bùn thì tanh. Tanh là bản chất của bùn. Nhưng bùn đẻ ra lúa, đẻ ra sen. Hay nói cách khác sen là tình chất của bùn. Nông dân suốt đời “chân lấm tay bùn”, quần áo đơn sơ mảnh lành mảnh vá, người bao giờ cũng  mồ hôi mồ kê. Đi bên nông dân nghe sực mùi bùn. Nhưng nông dân trồng ra lúa, ra sen, nuôi sống và làm đẹp cho người đời. Nông dân đẻ ra con cái, có người được mẹ cha nuôi học hành, ra thành phố làm  chức này chức khác. Có không ít người, khi  chòi lên cuộc đời quyền lực là vơ vét, tham nhũng, làm giàu bằng nhiều thủ đoạn, sống phè phỡn trên mồ hôi xương máu của nhân dân. Có người con nông dân chính gốc, nhưng khi lên làm quan, vì ham giàu mà quay lại, hùa với bọn đại gia để cướp đất nông dân. Chúng đông nhúc nhúc như dòi bọ. Mỗi lần mở báo ra, đọc những tin bài về tham những, cướp đất của dân, tôi lại nhớ  hai câu thơ Tố Hữu “ Mỗi lần mở báo ra / Căm thù lên tận cổ”. Những người đó hẳn chúng không còn nghĩ mình là nông dân, mà chỉ mình “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”. Phùng Quán đọc bài ca dao, không hề chê hoa sen xấu,  không hề chê bài ca dao, mà chỉ phát hiện ra chữ “gần”, để từ đó vạch trần chân tướng của bọn phản trắc. Sen là con của bùn đẻ ra, nên phải nói là “từ bùn”, hay “là bùn”, sao lại nói  “gần bùn”?? 
Phùng Quán phát hiện ra tứ thơ tuyệt vời đó, ngoài ý kiến phân tích của nhà thơ Mai Văn Hoan, tôi  nghĩ, còn nhờ “chỗ đứng” hay “vị trí” cảm xúc của anh. Ba mười năm “cá trộm- văn chui”- rượu chịu”,  Phùng Quán là người dưới đáy xã hội, tức Phùng Quán là bùn:“Ba mươi năm tôi bị dìm trong bùn-nhơ-lăng - nhục / Nhưng cuối cùng/ Quê hương đã nhận ra/ Trái –tim – thơ – trong sạch / Và gương - mặt -Thơ - bi thiết - của tôi...( Thơ Phùng Quán, NXB Văn học, 2003, tr. 211) . Vì là bùn lên Phùng Quán dễ dàng phát hiện ra những bọn từ bùn sinh ra mà không dám gọi mình là bùn. 
Trong một bức thư viết cho một người bạn trong những ngày cuối đời, Phùng Quán  viết : “Thượng đế nghiêm khắc nói với anh: ‘’ Ngươi phải úp mặt xuống cống rãnh cuộc đời, trên các ao máu chiến trận không bao giờ khô cạn, trong khói đắng nghẹt của thuốc nổ .. .mà tìm lấy thơ ‘’. Và anh đã phải thực hiện lời nguyền của Thượng Đế, từ lúc tuổi thơ cho đến nay, chương cuối cùng của cuộc đời anh...” . Cái trực cảm của người lính Vệ Quốc Đoàn đã giúp Phùng Quán viết bài thơ Chống tham ô lãng phí năm 1956, năm thứ hai miền Bắc giải được giải phóng. Nhà thơ kêu lên trước nạn tham nhũng, lãng phí :Trung ương Đảng ơi! / Lũ chuột mặt người chưa hết  / Đảng cần lập những đội quân trừ diệt / Có tôi / Đi trong hàng ngũ tiên phong. Đây là bài thơ chống tham ô lãng phí đầu tiên trong văn học cách mạng Việt Nam. Phùng Quán luôn tự vấn:  Tôi có quyền gì được no hơn nhân dân tôi một miếng ăn ? / Tôi có quyền gì được lành hơn nhân dân tôi một manh áo ?/ Tôi có quyền gì được rộng hơn nhân dân tôi một mét vuông nhà ở ? / Tôi có quyền gì được lên xe xuống ngựa / Khi gót chân nhân dân tôi nứt nẻ bụi đường ?!... 
Chính cái trực cám mạnh mẽ đó đã sinh ra bài thơ Hoa sen. Bài thơ là tuyên ngôn sống, là máu thịt Phùng Quán, chứ không  bao giờ có sự nhầm lẫn hay bảo thủ, dung tục gì ở đây cả. Không hiểu cuộc đời  bùn đen của Phùng Quán sẽ không bao giờ hiểu được bài thơ Hoa Sen .  
Cuối cùng tôi xin nói đôi lời về bài ca dao. Ca dao là loại sáng tác tập thể của dân gian qua hàng ngàn năm. Người đầu tiên nghĩ ra, người thứ hai, thứ ba, thứ  n... phát hiện ra những chữ, nhưng câu chưa hoàn chỉnh, sửa lại. Cứ thế, cứ thế...Bài ca dao «Trong đầm gì đẹp bằng sen... », nhiều người cho là hay là toàn bích. Nhưng nhà thơ Phùng Quán lại nghĩ khác về chữ gần. Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn. Như thế theo tôi là bài ca dao chưa toàn bích. Vẫn có chỗ để người đọc, người nghe nghĩ khác hẳn với chủ đề mà người sáng tác dân gian muốn. Nhất định rồi có người sẽ chỉnh sữa câu cuối cũng đó để bài ca dao thực sự toàn bích. Gần hay là Từ hay là. Là ? Ngay cả chữ hôi cũng cần nghĩ thêm. Mùi bùn là mùi bùn. Không thể gọi là hôi ( thối) được. Gần, hôi là chữ của người đứng trên cao nói về bùn, chứ người trong bùn (như nông dân) nói về mình, họ không bao giờ gọi bùn là hôi . Vậy phải sửa lại câu thơ làm sao vừa nói được vẻ đẹp của sen vùa khoe được niềm tự hào của bùn đã sinh ra nó. Nhưng sửa được câu cuối bài ca dao đó đòi hỏi phải là những thi sĩ thông tuệ của dân gian, Ngô Minh này không dám !

Huế, 27-5-2012

HOA SEN
PHÙNG QUÁN
Trong đầm gì đẹp bằng sen
Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng
Nhị vàng bông trắng lá xanh
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.

Mặc cho câu ca được cả nước lưu truyền
Và đời vẫn tin là ca ngợi phẩm chất của sen.
Nhưng tôi không thể nào tin được
Câu ca này gốc gác tự nhân dân
Bởi câu ca sặc mùi phản trắc
Của những phường bội nghĩa vong ân!
Vốn con cái của giai cấp cùng khổ
Chúng chòi lên cuộc đời quyền lực vàng son
Nghĩ đến mẹ cha chúng xấu hổ
Chúng mưu toan giấu che từ bỏ
Nói xa gần chúng mượn chuyện sen
Nhị vàng bông trắng lá xanh
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.
Tất cả là trong cái chữ gần
Chỉ một chữ mà ta thấu gan thấu ruột
Những manh tâm bội nghĩa vong ân.
Bùn với sen đâu phải chuyện gần?
Chính là sen mọc lên từ trong đó
Gốc của sen là thăm thẳm bùn đen
Nhị vàng , bông trắng, lá xanh…
Tất cả, tất cả, tất cả…!
Là do bùn nuôi dưỡng
Ngay cả hương thanh khiết ta đặt lên bàn thờ cúng
Cũng là xương thịt của bùn tanh!
Như nhân dân: Gian truân, thầm lặng, vô danh
Đã sinh ra vĩ nhân, anh hùng, nghệ sỹ…
Nhân danh bùn! Nhân danh sen!
Tôi đề nghị: Đuổi câu phản trắc này khỏi kho báu dân gian!

Thơ Phùng Quán/ Bài bình Ngô Minh
Tác giả gửi bài