NHỮNG PHÁ CÁCH TÀI TÌNH TRONG THƠ
Thuở Sơ Ðường người ta làm thơ không chú trọng nhiều về luật. Thật ra luật chỉ làm cho người thơ dễ đạt được ý thơ. Thơ hay không hẳn vì niêm luật. Những bài thơ của các vị Tam Khôi (Tam Nguyên, Bảng Nhãn, Thám Hoa) hẳn là rất đúng niêm luật. Nhưng những bài thơ ấy vị tất là những bài thơ hay ! Chứng cớ là sau những lần yết bảng, vua thường thiết yến đãi các quan tân khoa. các vị tam khôi đều có làm thơ lưu niệm. Nhưng cho đến nay thứ thơ lưu niệm ấy ít ai còn nhớ lấy dù chỉ một bài ! Vậy thì thơ hay không phải vì đúng luật.... Chẳng qua chỉ là một lối thơ trong trường ốc thì phải câu nệ vào luật . Không thế thì làm sao mà chấm ? Luật để làm tiêu chuẩn cho mọi sự phê phán. Nhưng những người làm thơ hẳn là phải đồng ý với nhau rằng thơ muốn hay trước hết phải có hồn. Hồn thơ là cái duyên của thơ. Thơ không có hồn như người không có duyên. Vô duyên thì đẹp mấy cũng không ai chuộng ! Hồn thơ xuất phát từ sự chân thành, sự giản dị. Hít thở làm nên sự sống, nhưng hít thở phải không cầu kỳ, phải thật tự nhiên thật giản dị. Nằm có cách hít thở của lúc nằm, ngồi có cách hít thở của ngồi, đứng cũng thế. Ngũ ngôn, thất ngôn, tứ tuyệt, cho đến lục bát, song thất... mỗi thứ đều có một lối luật riêng... Lối thở của lúc đứng khác lối thở của lúc nằm. Luật thơ Lục Bát khác xa luật thơ Ðường. Nhưng vẫn là luật nghĩa là những phép tắc riêng giúp cho người thơ đạt được ý thơ. Cho nên cái tài tình của người thơ là biết phối hợp các thể thơ. Tôi xin mượn một bài thơ của Tản Ðà làm ví dụ. Tôi nghĩ Tản Ðà là một thi sĩ thượng thặng của Việt Nam. Ông là người thông thạo thập bát ban võ nghệ. Có nghĩa là lối thơ nào ông cũng rành cả. Cho nên trong một bài thơ ông phối hợp nhiều thể thơ, phối hợp một cánh rất tài tình, rất tự nhiên, đó là bài Cảm Thu, Tiễn Thu, Ông mở đầu bằng:
Từ vào thu đến nay:
Gió thu hiu hắt,
Sương thu lạnh
Trăng thu bạnh
Khói thu xây thành.
Lá thu rơi tụng đầu ghềnh
Sông thu đưa lá bao ngành biệt ly.
Nhạn về én lại bay đi,
Ðêm thì vượn hót, ngày thì ve ngâm.
Lá sen tàn tạ trong đầm,
Nặng mang giọt lệ âm thầm khóc hoa.
Sắc đậu nhuộm ố quan hà
Cỏ vàng cây đỏ bóng tà tà dương.
Nào người cố lí tha phương,
Cảm thu ai có tư lường hỡi ai?
Nào những ai:
Bảy thước thân nam tử,
Bốn bể chí tang bồng
Ðường mây chưa bổng cánh hồng,
Tiêu ma tuế nguyệt, ngại ngùng tu mi.
Nào những ai:
Sinh trưởng nơi khuê các,
Khuya sớm phận nữ nhi,
Song the ngày tháng thoi đi,
Vương tơ ngắm nhện nhỡ thì thương hoa.
Nào những ai:
Tha phương khách thổ
Hải giác thiên nha,
Ruột tằm héo, tóc sương pha,
Góc phần trạnh tưởng quê nhà đòi cơn.
Nào những ai:
Cù lao báo đức
Sinh dưỡng đền ơn
Kinh sương nghĩ nỗi mền đơn,
Giàu sang bất nghĩa mà hơn nghèo hèn!
Nào những ai:
Tóc xanh mây cuốn
Má đỏ hoa ghen
Làng chơi duyên đã hết duyên
Khúc sông trăng dãi con thuyền chơi vơi!
Nào những ai:
Dọc ngang trời rộng,
Vùng vẫy bể khơi
Ðội trời đạp đất ở đời
Sa cơ thất thế quê người chiếc thân.
Nào những ai:
Kê vàng tỉnh mộng
Tóc bạc thương thân
Vèo trông lá rụng đầy sân,
Công danh phù thế có ngần ấy thôi.
Thôi nghĩ cho:
Thu tự trời,
Cảm tự người.
Người đời ai cảm ta không biết!
Ta cảm thay ai viết mấy lời.
Thôi thời:
Cùng thu tạm biệt
Thu hãy tạm lui,
Chỉ để khách đa tình đa cảm,
Một mình thay cảm những ai ai!
Bài thơ bắt đầu bằng câu ngũ ngôn, rồi xuống câu tam ngôn, tứ ngôn, rồi tiếp theo là lục bát. Không ai băn khoăn hỏi đây là thể thơ gì ? Bởi nó rất thơ, ngũ ngôn thì ra ngũ ngôn, rồi chuyển đến tam tứ ngôn, đều tự nhiên như thế cả.
Bài Tống Biệt :
Lá đào rơi rắc lối thiên thai
Suối tiễn oanh đưa luống ngậm ngùi
Nửa năm tiên cảnh
Một phút trần ai
Ước cũ duyên thừa có thế thôi
Ðá mòn rêu nhạt
Nước chảy huê trôi
Cái hạc bay lên vút tận trời!
Trời đất từ đây xa cách mãi
Cửa động
Ðầu non
Ðường lối cũ
Ngàn năm thơ thẩn bóng trăng chơi...
Bài này không thể nói là thể thơ gì nhưng có ai bảo nó không phải là thơ ?
Tôi nhớ đến một bài thơ khác của ông Hà Thượng Nhân trên báo Tự Do viết gởi ông Kémoularia đại diện liên Hiệp Quốc. Vào ngày 27 tháng 8 năm 1959, Ủy ban Quốc Gia Việt Nam trước sự hiện diện của ông Kémoularia, đại diện đặc biệt của ông Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc về năm những người tỵ nạn trên thế giới đã nhóm họp tại Sài Gòn.
Bài thơ dưới đây mà ông HTN đã viết để chào mừng vị sứ giả của tình thương ấy. Bài thơ tuy dài nhưng vẫn có tính chất thời sự, vì thế tôi xin chép lại nguyên văn:
Kính chào Kémoularia
Kính chào Kémoularia
Sứ giả tự do
Tiếng nói của con người đau khổ.
Chúng tôi ra đi
Vượt Trường Sơn hiểm trở,
Lấy tay yếu cản đè sóng dữ,
Không cần sống, chỉ cần dân chủ,
Tìm về thế giới tự do
Ở đâu áo ấm cơm no ?
Trăng Thu rung mãi tiếng hò nhặt khoan.
Chúng tôi khinh nguy nan,
Tìm tấm lòng cởi mở.
Lúc gặp nhau vui mừng hớn hở,
Dù mới quen như biết từ lâu.
Mời nhau này một miếng trầu,
Chuyền tay vê điếu thuốc lào cũng vui.
Chúng tôi đổ mồ hôi,
Nâng niu từng tấc đất,
Mỗi tấc đất là tấc lòng tấc ruột,
Là máu xương, là sự nghiệp ông cha.
Mà nay lìa cửa, lìa nhà,
Bởi say ánh sáng, chẳng thà thiêu thân.
Năm châu triệu triệu bước chân,
Của chúng tôi : Những người dân cần cù.
Ơi Tây Ðức mịt mù thăm thẳm,
Ơi Nam Dương ngàn dặm, héo hon !
Bốn phương giang mắc núi non,
Lưới nào bủa được cánh con chim trời ?
Ơi Tây Tạng, những lời nói ngọt,
Tại làm sao chẳng lọt vào tai ?
Ơi Hung Gia Lợi anh tài,
Nắm tay thành bức tường dài : chúng ta,
Kính chào Kémoularia,
Kính chào Liên Hiệp Quốc.
Phẩm giá con người từ lâu nhơ nhuốc,
Chúng tôi đi để chuộc lấy linh hồn.
Rồi những bình minh, rồi những hoàng hôn,
Chợt tỉnh lại ngoảnh về đất Bắc,
Thương cha mẹ đày trong gót giặc,
Nhớ từng lối cỏ bờ tre,
Mùa nào lúa chín đỏ hoe,
Mùa nào gió trở se se, hỡi mình ?
Nếu lấy sống làm vinh,
Chúng tôi không sống nhục.
Chỉ có một cực hình,
Là cúi đầu gục mặt.
Chúng tôi đi, bởi không cam què quặt,
Không học theo lang sói sủa quân thù,
Rạch Cái Sắn thành khoai, thành đỗ,
Rừng cao nguyên thành lúa, thành cơm,
Ðánh tranh gìn giữ cọng rơm,
Ở đây tưởng thấy mùi thơm quê nhà.
Ơi Kémoularia !
Biết lấy chi làm quà,
Trao vào tay sứ giả ?
Xin cho gửi niềm thống khổ,
Mồ hôi nước mắt tin yêu.
Xin cho gửi lời chào,
Những ai cùng cảnh ngộ,
Tiếng nói chúng tôi dù rằng bé nhỏ
Nhưng là tiếng nói can trường.
Nhờ tình yêu dẫn lối đưa đường
Hòa trong tiếng những người “đồng chí”.
Chúng tôi viết giữa không gian hùng vĩ,
Giữa lòng thế kỷ hai mươi :
“Chúng tôi là người,
Chúng tôi muốn làm người.”
Hỡi Kémoularia,
(trích trong tập thơ CHÂN TÂM do Ðỗ Kế Hoàn sưu tập trang 23)
Bài thơ này không viết theo một thể thơ nhất định nào. Nó là phối hợp nhiều thể thơ nhưng là một bài thơ.
Và sau đây là một bài Thất ngôn bát cú :
NGÔNG
Quay ngựa xích thố buộc khóm trúc
Ném gươm long tuyền về non Tây
Chí thôi đã lỡ, kệ binh lửa,
Danh vốn không màng, mặc cỏ cây.
Gà chó đôi con năm tháng rộng
Ruộng vườn dăm khoảnh gió trăng đầy
Buông câu, xốc áo quay nhìn vợ:
Trời đã chiều chưa? Ta đã say!
HTN
Câu đầu toàn vần trắc đến câu hai toàn vần bằng, bài thơ thật hay phá cách thật tài tình. Ông cũng đáng danh là một “đại gia thơ” trong làng thơ Việt Nam.
Như vậy thì thể thơ là một cách nói. Gần đây Bà Vi Khuê có viết và gửi cho tôi một bài thơ
. Mới đọc qua tưởng là luật Ðường. Nhưng theo tôi, đó là bài thơ “có vẻ” là luật thế thôi. Bài thơ như sau :
Bà Huyện Thanh Quan
Một tấm lòng hoa nặng nỗi niềm
Niềm non nỗi nước, mảnh tình riêng
Trong cơn gió bụi chìm hương lửa
Giữa cảnh phong ba lạnh mối giềng
Cung báo quốc não nùng điệu quốc
Giọng thuyền quyên khắc khoải lời quyên
Dừng chân đứng lại, ngùi trông lại
Ðể lại lời thơ vạn cổ truyền
Câu 5 có vẻ không đúng luật, nhưng nhịp của hai câu thơ ấy rõ ràng không còn là nhịp thơ của luật thơ nữa. Cho nên ta vẫn thấy thuận tai. Câu thơ vẫn đứng vững bởi nó đã chuyển qua nhịp thơ Song Thất (nhịp ba).Muốn phá được như thế, trước hết phải nắm vững luật thơ nói chung và dĩ nhiên tài năng phải vào bậc thượng thừa.
Lý Bạch, Thôi Hiệu, Ðỗ Phủ, Nguyễn Du... là những thi sĩ thượng đẳng, những đại gia trong làng thơ. Nhưng bài Anh Vũ Châu của Lý Bạch, bài Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu, bài Khúc Giang của Ðỗ Phủ thất niêm và Ðộc Tiểu Thanh Ký của Nguyễn Du cũng thất niêm :
Chưa ai làm thơ nhiều bằng Lý bạch, Thơ đối với ông là không khí. Ông xử dụng nó tự nhiên như hít thở khí trời.
Lý Bạch, tổ sư của thơ, người đời thường gọi ông là Trích Tiên, ông cũng có những bài thơ không chú trọng tới niêm luật :
Anh Vũ Châu
Anh Vũ lai quá Ngô giang thủy
Giang thượng châu truyền Anh Vũ danh
Anh Vũ tây phi lũng sơn khứ
Phương châu chi thụ hà thanh thanh
Yên khai lan điệp hương phong noãn
Ngạn giáp đào hoa cẩm lãng sinh
Thiên khách thử thời đồ cực mục
Trường châu cô nguyệt hướng thùy minh
Dịch Nghĩa:
Chim Anh vũ xưa bay đến sông Ngô
Bãi trên sông mới truyền lại tên Anh Vũ
Chim anh vũ đã bay về Tây qua núi Lũng
Bãi thơm cây xanh biếc làm sao !
Khói toả ra từ lá cây lan làm gió thơm nổi dậy
Bờ liền với hoa đào, sóng gấm sinh
Lúc ấy người đi đày trông hoài cõi xa
Trên bãi dài mảnh trăng cô đơn còn soi sáng cho ai
Dịch Thơ:
Bãi Anh Vũ
Sông Ngô anh vũ xưa qua đó
Anh vũ thành tên gọi đến giờ
Anh vũ về đây qua núi Lũng
Bãi thơm cây cối những xanh mờ !
Mùi hương lan diệp lừng trong khói
Sóng gấm đào hoa gợn sát bờ
Thiên khách trông vời thôi cũng uổng
Ðợi ai trăng bãi luống bơ vơ !...
Bản dịch của Lê Nguyễn Lưu
Hay :
Nhãn tiền hữu ảnh đạo bất đắc
Thôi Hiệu đề thi tại thượng đầu
Hay là :
Ðộng Ðình Hồ tây thu nguyệt huy
Tiêu tương giang bắc tải hồng phi
Túy khách mãn tiền ca Bạch Tử
Bất tri sương lệ nhạn thu y
Và :
Cố nhân tây hồ Hoàng Hạc lâu
Yên ba tam nguyệt há Dương Châu
Những câu trích ra trên đây, thất niêm, thất luật lung tung ! Lý Bạch lại không biết luật ư ? Biết mà vẫn không sửa, không cần sửa, bởi nếu ông ta sửa, câu thơ sẽ mất hay !
Những câu thơ hay của Hàn Mặc Tử, của Quang Dũng của Thâm Tâm cũng cần có luật đâu ? Vậy thì niêm luật không cần thiết ư ? ố Không cần thiết thì đặt ra làm gì, nghiên cứu làm gì ?
Xin thưa : niêm luật cần lắm chứ ! Nó giúp người ta rất nhiều để làm những bài thơ “khả thủ”, những tay đại bút thì không cần. Họ chính là luật, họ tạo ra luật. Muốn sáng tạo đương nhiên phải thông thạo nó. Chưa biết mà tấp tểnh phá luật là một điều buồn cười. Người phá luật phải rất thông thạo luật, cũng như người giỏi võ phải thông thạo mọi thế võ, khi đã thạo võ, xuất chiêu là thành võ đâu cần phải câu nệ ? Không một võ sĩ nào khi lên đấu mới nghĩ đến những miếng võ mình cần xử dụng. Lầu thông rồi, nó biến thành những cử chỉ tự nhiên như hơi thở , đi đứng.
Bài Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu, là một trong những bài thơ hay trong hàng trăm hàng vạn bài thơ Ðường . Hoàng Hạc Lâu, hay đến nỗi nhà thơ như Lý Bạch, bước đến Lầu Hoàng Hạc thấy thơ của Thôi Hiệu đề trên vách, liền quăng bút, không dám đề thơ nữa ! Giai thoại là thế, Lý Bạch là thi tiên của đời Ðường, là người uống một đấu rượu làm một nghìn bài thơ (Lý Bạch, đấu tửu thi bách thiên). Theo giáo sư Nguyễn Xuân Vinh thì ông làm gần hai vạn bài thơ.
Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu như sau :
Tích nhân dĩ thừa Hoàng Hạc khứ
Thử địa không dư Hàng Hạc Lâu
Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản
Bạch vân thiên tải không du du
Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ
Phương thảo thê thê Anh Vũ châu
Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân sầu
Tản Ðà đã dịch và cho đến nay vẫn được coi là bài dịch hay nhất :
Lầu Hoàng Hạc
Hạc vàng ai cưỡi đi đâu,
Mà nay Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ.
Hạc vàng đi mất từ xưa,
Ngàn năm mây trắng bây giờ còn bay.
Hán Dương sông tạnh cây bày,
Bãi xa Anh Vũ xanh đầy cỏ non.
Quê hương khuất bóng hoàng hôn,
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai.
Tản Ðà
Huệ Thu cũng có bài dịch :
(trong tập SCTÐ)
Hạc vàng ai cưỡi đi đâu ?
Biết chăng Hoàng Hạc đây lầu trống trơn
Hạc bay rồi, đã bay luôn
Tầng cao mây trắng cứ vờn thiên thu
Hán Dương cây đứng gục đầu
Châu Anh bờ cỏ xanh màu nhớ thương
Sớm chiều nhắc mãi quê hương
Trên sông khói sóng giăng buồn trời ơi !
huệ thu
Và bài Khúc Giang của Ðỗ Phủ:
Triều hồi nhật nhật điển xuân y
Mỗi nhật giang đầu tận túy quy
Tửu trái tầm thường hành xứ hữu
Nhân sinh thất thập cổ lai hy
Xuyên hoa giáp điệp thâm thâm hiện
Ðiểm thủy thanh đình khoản khoản phi
Truyền ngữ phong quang cộng lưu chuyển
Tạm thời tương tống mạc tương vi
Tản Ðà Dịch :
Sông Khúc
Khỏi bệ vua ra cố áo hoài
Bến sông say khướt, tối lần mai
Nợ tiền mua rượu đâu không thế ?
Sống bảy mươi năm đã mấy người ?
Bươm bướm luồn hoa phơ phất lượn
Chuồn chuồn rỡn nước lửng lơ chơi
Nhắn cho quang cảnh thường thay đổi
Tạm chút chơi xuân kẻo nữa hoài.
Câu thứ bảy thất niêm, chữ lưu phải là chữ trắc. Dĩ nhiên Ðỗ Phủ thừa biết như vậy. Ông thất niêm cố ý ! Hỏi tại sao ông lại cố ý thì lại là vấn đề khác.
Bài Ðộc Tiểu Thanh Ký của Nguyễn Du cũng vậy :
Tây Hồ mai uyển tẩn thành khư
Ðộc điếu song tiền nhất chỉ thư
Chi phấn hữu thần lân tử hậu
Văn chương vô mệnh lụy phần dư
Cổ kim hận sự thiên nan vấn
Phong vận kỳ oan ngã tự cư
Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như ?
Bài thơ viết theo luật bằng :
Tây Hồ mai uyển tẩn thành khư
Ðến câu thứ 7 tự nhiên tác giả chuyển qua luật trắc :
Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như ?
Trong làng thơ Quốc Âm, thơ thất niêm còn để lại cũng khá nhiều, thí dụ bài Vịnh Dế Duỗi của Tú Qui:
Kiến chẳng kiến voi chẳng voi
Ðời sanh dế duỗi cũng loi choi
Ngắn cánh lên trời không đủ sức
Có tay vạch đất cũng khoe tài
Mưa tuôn gió tạt lên cao ở
Lửa bỏng dầu sôi nhảy đến chơi
Quân tử có thương thời chớ phụ
Ðể cho bay nhảy thử mà coi
Bà Hồ Xuân Hương trong bài Ðèo Ba Dội câu đầu Hồ nữ sĩ đã phá luật:
Một đèo, một đèo, lại một đèo !
Khen ai khéo tạc cảnh cheo leo
Cửa son đỏ loét tùm lum nóc
Hòn đá xanh rì lún phún rêu
Lắt lẻo cành thông cơn gió thốc
Ðầm đìa lá liễu hạt sương gieo
Hiền nhân quân tử ai mà chẳng
Mỏi gối chồn chân cũng cứ trèo
Trong bài Xướng họa với Chiêu Hổ :
Anh đồ tỉnh, anh đồ say
Sao anh ghẹo nguyệt giữa ban ngày ?
Này này chị bảo cho mà biết
Chốn ấy hang hùm chớ mó tay !
Hay trong bài Khóc Tổng Cóc :
Chàng cóc ơi ! Chàng Cóc ơi !
Thiếp bén duyên chàng có thế thôi
Nòng nọc đứt đuôi từ đấy nhé
Nghìn vàng khôn chuộc dấu bôi vôi !
Câu đầu của hai bài thơ Tứ Tuyệt mỗi câu chỉ có 6 chữ, theo luật vừa phá cách vừa thất niêm, không nhất tứ (theo niêm thơ tứ tuyệt : nhất tứ, nhị tam). Những phá cách của nữ sĩ họ Hồ khó ai bắt bẻ được, bởi thơ bà chữ nghĩa dùng quá hay và quá tài tình.
Những người còn quá câu nệ vào luật thơ thì nên nhớ câu này :
Tận tín thư bất như vô thư = tin hết vào sách thà đừng có sách còn hơn.
Học nhưng phải có sáng tạo nhưng muốn sáng tạo phải biết cho tường tận trước đã.
Bất kể cái gì cũng cần phải học, phải có nguyên tắc. Và cũng phải hiểu, chưa có một nguyên tắc nào là vẹn toàn ! Học như thế mới là học.
Như vậy những bài thơ thất niêm, thất luật còn được truyền tụng phần nhiều là của các bậc danh gia. Vậy thì: “Ðại gia văn chương bất câu niêm luật”ư ?
Sự thật, niêm luật đối với người đã thạo nghề chẳng khác những võ sĩ khi thượng đài không còn phải nhẩm lại các đường quyền phải múa thế nào cho đúng, chân tấn thế nào cho vững! Xuất chiêu dĩ nhiên là có thế võ rồi.
Thiết tưởng sự thất niêm thất luật kia là cố tình chứ không phải sơ ý .
Rất nhiều bài thơ nổi tiếng ở nước ta của Hàn mặc Tử, của Quang Dũng ... vừa thất niêm lại thất luật !( xin đọc phần phụ). Cho nên rõ ràng niêm luật chưa phải là thơ. Cứ câu nệ ở niêm luật chưa chừng thơ không còn là thơ nữa !
* Phần phụ Thêm :
Tôi nhớ trước đây tôi có trả lời chị NTND về một câu thơ của tôi chị cho là sai luật, trong bài :
Nhớ Quê Hương
Quê Hương. Trời ! Thao thức không tên *
Một tiếng rao quà mới cất lên
Ðà Lạt mây xưa mờ trước cửa
Trại Hầm mận ngọt lịm nhà bên
Chép thơ trong lớp lòng ngơ ngẩn
Cởi áo qua cầu nổi nhớ quên !
Một chút nắng vàng trên lộ vắng
Rưng rưng ngày ấy thác Prenn .
***
* Vì Câu nầy HThu muốn dùng lối phá thể, nếu không thì có thể viết :
Quê Hương thao thức nhớ không tên - nhưng nếu viết như thế này HThu thấy câu thơ mất đi cái vẻ phóng khoáng !
Câu đầu chị NTND muốn tôi sửa lại vì bị “trật niêm luật” - Nhưng tôi trả lời câu thơ đó tôi viết như thế vì muốn chuyển nhịp...
- Nếu hiểu theo cách học của nhà trường lúc mới vỡ lòng về thơ thì câu ấy sai luật chứ không sai niêm. Muốn sai niêm phải sánh với câu dưới. Còn nếu muốn nói đã sai luật là kéo thêm niêm thì cũng không sao.
Tôi xin kể ra đây một số thơ của những thi sĩ lớn của Việt Nam cũng như của Trung Hoa viết sai luật, cả niêm nữa (Nói đúng hơn là phá niêm luật).
Như trên, trong bài Khúc Giang , Ðỗ Phủ viết :
Truyền ngữ xuân quang cộng lưu chuyển
Trong câu này chữ lưu phải là thanh trắc
Trong bài Hoàng Hạc Lâu Thôi Hiệu viết :
Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ
Chữ thừa thất luật .
Thơ Việt Nam thì Hàn Mặc Tử viết :
Sao anh không về chơi thôn Vỹ
Chữ về thất luật.
Quang Dũng thì viết :
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Chữ luông thất luật.
Trong bài Tống Biệt Hành, Thâm Tâm viết:
Ðưa người ta không đưa qua sông
Cả một câu bảy chữ đều là thanh bằng.
Trong bài Ðộc Tiểu Thanh Ký, Nguyễn Du viết :
Phong vận kỳ oan ngã tự cư
rồi hạ xuống hai câu kết:
Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ thùy nhân khấp Tố Như
như thế là thất niêm.
Thật ra, người ta làm thơ trước khi biết luật; Nói được Việt ngữ chẳng hạn trước khi học ngữ phạm Việt Nam. Luật không phải do người sáng chế ra mà chỉ do người khám phá ra luật . Vậy thì luật do đâu mà có ? Luật là quy tắc chung của muôn loài muôn vật : như nước chảy xuống chỗ trũng ... Con người quan sát thiên nhiên, khám phá những quy luật của thiên nhiên, rồi quy củ hóa nó, điển chế nó để áp dụng vào thi ca, âm nhạc v... v...
Cái luật cốt tử của nó là luật điều hòa âm dương. Trong thơ, tiếng bằng là âm, tiếng trắc là dương. Mỗi câu thơ dù dài, dù ngắn, phải chia ra thành từng nhịp.
Người hơi có ý thức về thơ, đọc một câu thơ tất phải ngắt nhịp. Thường mỗi câu thơ chia ra làm ba nhịp.
Bây giờ hãy xin nói đến luật thơ Ðường Thi bát cú :
Mỗi bài có tám (8) câu, năm (5) vần, hoặc bốn (4) vần. Có hai thể : thể bằng và thể trắc.
Xin đơn cử một bài theo thể bằng :
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo
v... v...
Nhất tam ngũ bất luận, nhị tứ lục phân minh.
Vậy thì chỉ có những chữ thứ 2, 4 , 6 phải theo luật bằng trắc như đã ấn định.
Luật ấy nếu viết tắt ra thì như thế này:
Thể bằng:
Chữ thứ Chữ thứ Chữ thứ
2 4 6
B T B
T B T
T B T
B T B
B T B
T B T
T B T
B T B
Thể Trắc :
Chữ thứ 2 Chữ thứ 4 Chữ thứ 6
T B T
B T B
B T B
T B T
T B T
B T B
B T B
T B T
Nhìn vào đó ta thấy, đếm theo hàng dọc :
B + TT + BB + TT + B
Vì bài thơ là thể bằng nên chữ thứ 2 của câu đầu là thanh bằng.
Nếu đếm theo hàng ngang thì :
B + T + B
Hễ giữa mà trắc, hai bên bằng là đúng luật. Còn đếm theo hàng dọc chữ thứ 2 của câu 1 + 8 giống nhau, chữ 2 của câu 2 + 3 giống nhau, chữ 2 của câu 4 + 5 giống nhau, chữ 2 của câu 6 + 7 giống nhau là đúng niêm.
Niêm luật ấy là chỉ dùng cho việc thi cử (để dễ có tiêu chuẩn mà chấm bài). Những bài thơ đúng luật nhất là những bài thơ của các vị đại khoa (các cụ Trạng, cụ Bảng, cụ Thám, cụ Nghè) khi làm để lưu niệm lúc ngồi ăn với vua. Những bài thơ ấy ngày nay có còn ai nhớ nữa đâu ! Nó chỉ đúng luật chứ chưa phải là thơ.
Những bài thơ mà tôi vừa nêu trên (như bài của Ðỗ Phủ là một bài luật thi hẳn hoi) mà vẫn thất niêm, thất luật. đâu có phải vì những người ấy không hiểu niêm luật.
Nếu chúng ta để ý nhận xét thì thấy thế này; từ tứ tuyệt đến song thất, đến luật thi, đến ca trù, đến thơ mới 8, 9 chữ.., tất cả chỉ có một luật, tất cả các luật đều giống nhau. Sở dĩ trong các sách giáo khoa người ta dạy thơ lục bát khác luật song thất v... v... để cho học trò dễ nhớ. Các thể thơ mà khác nhau là do nhịp thơ. Chính nhịp thơ (chữ cuối mỗi nhịp thơ là luật thơ, bắt buộc (nói bắt buộc là nói tương đối thôi) phải theo đúng bằng trắc còn tất cả tùy tiện muốn viết là bằng hay trắc cũng được. Ðây là tôi chỉ nói một cách sơ lược.
Vì thế trong câu thơ mà chị bảo là sai luật là tôi muốn chuyển nhịp câu thơ đang 2 + 2 + 3 thành 3 + 2 + 2 . Không phải là tôi bảo rằng có thể dùng thể thơ trộn lẫn song thất vào thể thơ thất ngôn. Ấy là tôi nhìn vào cái lý cuối cùng của luật : tạo ra quân bình thoải mái cho câu thơ. Mong sẽ còn lãnh thêm ý kiến của chị và các bạn thơ .
Ở trên tôi đã viết tất cả các thể thơ đều chung một luật : ấy là luật quân bình âm dương. Luật ấy là căn cứ ở những chữ cuối nhịp cửa mỗi câu thơ mà định. Chỉ có 3 chữ ở cuối các nhịp là chữ Luật nghĩa là phải viết đúng theo công thức T (nhịp 1) bằng (nhịp 2) T (nhịp 3) hoặc ngược lại: B (nhịp 1) Trắc (nhịp 2) B (nhịp 3) nghĩa là hễ chữ cuối ở nhịp thứ 2 là trắc thì chữ cuối của nhịp 1 và 3 phải bằng.
Tôi xin chứng minh :
Thể Lục Bát
Trăm năm (B) trong cõi (T) người ta (B)
Chữ tài (B) chữ mệnh (T) khéo là (B) ghét nhau (B)
Bởi câu 8 có 4 nhịp, 2 nhịp 3 và 4 cùng là bằng nên 2 chữ bằng 1 phải có dấu huyền (là) và một chữ không có dấu. Nhịp thơ của thơ lục bát là nhịp 2 - Tuy nhiên, thỉnh thoảng cũng có luật lệ như câu :
Mai cốt cách (T) / tuyết tinh thần (B)
Câu thơ này nhịp 3 . Ðã vậy thì cuối nhịp 1 phải là trắc. Thơ lục bát có những biến thể :
Biến thể 1 :
ví dụ ta viết (đây chỉ là ví dụ):
Trăm năm trong cõi người ta
Chữ mệnh khéo là ghét bỏ chữ duyên
Vần đáng lẽ ở chữ thứ 6 ở câu 2 thì ở đây lại gieo vào chữ thứ 4 . Khi ấy chữ cuối của các nhịp thơ sẽ đổi là nhịp 1 (chữ thứ 2) T, chữ thứ 4 (B), chữ thứ 6 (T) và chữ thứ cùng là bằng thì chữ vần phải có dấu huyền và chữ thứ 8 thì không .
Biến thể 2:
ví dụ :
Nước trong xanh lơ lửng cái con cá vàng
Cây ngô, bây giờ mà cành bích con chim phụng hoàng nó đậu cành trên .
Dù số chữ trong câu có dài hơn nhưng đọc lên câu trên vẫn có 3 nhịp và câu dưới có 4 nhịp . Ðó là 1 kiểu thơ của dân gian cho nên số chữ có thể linh động thêm bớt. Tuy nhịp thơ thì vẫn y nguyên . Nhịp thơ căn cứ vào đâu mà biết ? Thưa: - do linh tính. Ðọc lên là biết liền. Nếu đọc không đúng nhịp thì sẽ thấy trúc trắc .
Luật thơ song thất lục bát :
ví dụ :
Trải vách quế (T)gió vàng (B) hiu hắt (T)
Mảnh vũ y (B) lạnh ngắt (T) như đồng (B)
Oán chi những khách tiêu phòng
Mà xui phận bạc nằm trong má hồng
Luật thơ là : T (quế) B (vàng) T (hắt)
(y) T (ngắt) B (đồng)
Chữ bằng ở cuối nhịp 1 không có dấu huyền thì chữ thứ 7 bắt buộc phải có. Ta nhìn rõ thì câu thơ theo đúng luật âm dương: giữa bằng thì hai bên trắc và ngược lại.
Thơ mới:
ví dụ :
Ðây là quán / tha hồ / muôn khách đến /
Ðây là bình / thu hợp / trí muôn hương /
Ðây là vườn / chim nhả hạt / mười phương
Hoa mật ngọt / chen giao / cùng trái độc /
Ðôi giếng mắt / đã chứa trời / vạn hộc /
(Xuân Diệu)
Nhịp của các câu thơ 8 chữ có thể là (theo các câu trên)
3 + 2 + 3
3 + 2 + 3
3 + 3 + 2
3 + 2 + 3
3 + 3 + 2
(nghĩa là có thể linh động)
Luật thơ : căn cứ vào các chữ cuối nhịp, ta có :
Câu 1 Quán (T) hồ (B) đến (T)
Câu 2 hình (B) hợp (T) hương (B)
Câu 3 vườn (B) hạt (T) phương (B)
Câu 4 ngọt (T) giao (B) độc (T)
câu 5 mắt (T) trời (B) hộc (T)
Nó đã đi vào luật ban đầu :
Giữa Bằng 2 bên trắc
Giữa Trắc 2 bên bằng
Hát nói:
Ví dụ :
Mới ngày nào / đã biết / cái chi chi
Mười lăm năm / thấm thoát / có ra gì /
Ngoảnh mặt lại / đã tới kỳ / tơ liễu .
Căn cứ vào những chữ cuối nhịp ta có :
nào (B) biết (T) chi (B)
năm ( B) thoát (T) gì (B)
lại (T) kỳ (B) liễu (T)
Cũng vẫn luật : giữa Trắc 2 bên Bằng và ngược lại câu 2, chữ cuối nhịp 3 cũng bằng nhưng không dấu .
Ðây là những hiểu biết thô thiển của tôi về phá cách trong luật thi , xin các quý vị cao minh cho thêm ý kiến để học hỏi thêm.
Huệ Thu
Ngày 10 tháng 3 năm 2008
Ý kiến bạn đọc
Vui lòng login để gởi ý kiến. Nếu chưa có account, xin ghi danh.
NHÌN LẠI NHỮNG BÀI THƠ GỌI LÀ 'PHÁ CÁCH'
Võ Nhựt Ngộ May 10, 2009
(góp ý cho bài Những Phá Cách Tài Tình Trong Thơ)
trước xin trích những dòng của Quách-Tấn …
Ðường Luật không phải do một cá nhân hay một nhóm thi nhân cao hứng đặt ra theo sở kiến, sở thích của mình, mà chính là sự đúc kết những kinh nghiệm kỹ thuật lâu đời đã thành công, và điển chế những thành công ấy làm khuôn phép chung cho làng thơ … (Quách-Tấn)
Theo giải thích trên đây của Quách-Tấn thì sự đúc kết những kinh nghiệm kỹ thuật lâu đời đã thành công của thơ Thất Ngôn Bát Cú Đường Thi đã sinh ra Đường Luật là những khuôn phép chung cho làng thơ dùng.
Nhưng hiện có chuyện ngược ngạo là bộ Đường Luật hiện tại, với dải số kiểm soát 1-8 2-3 4-5 6-7 đã khiến cho có một số lớn bài Đường Thi của các đại thi gia danh tiếng như Lý Bạch, Đỗ Phủ bị xếp vào hạng « thất Niêm » !
Để khai thông sự lỉnh kỉnh nêu trên, xin mời quý bạn đi sâu vào phần kỹ thuật dùng trên những bài bát cú Đường Thi để may ra tìm hiểu được lý do.
Những chi tiết nêu ra dưới đây đều lấy từ những bài thơ gốc Đường thi chính cống.
Quan sát và phân tích phần kỹ thuật của Đường Thi thì thấy như sau :
1/ thi nhân đời Đường sử dụng hai loại Niêm khác nhau của thơ tứ cú là 1-4 2-3 và 1-3 2-4 một cách riêng rẻ cho 4 câu trên và 4 câu dưới của bài bát cú.
Xin trình bày hai loại Niêm vừa nói của thơ tứ cú :
Niêm theo 1-4 2-3 như :
MỤC TÚC PHONG KÝ GIA NHÂN
Mục túc phong biên phùng lập xuân
Hồ Lư hà thượng lệ triêm cân
Khuê trung chỉ thị không tương ức
Bất kiến sa trường sầu sát nhân.
Sầm Tham
(xin nhắc luôn : về Luật thì bài trên đây theo Luật Trắc)
Niêm theo 1-3 2-4 như :
VỊ THÀNH KHÚC
Vị thành triêu vũ ấp khinh trần
Khách xá thanh thanh liễu sắc tân
Khuyến quân cánh tận nhất bôi tửu
Tây xuất Dương Quan vô cố nhân.
Vương Duy
(xin nhắc luôn : về Luật thì bài trên đây theo Luật Bằng)
Hai phép Niêm này (1-4 2-3 và 1-3 2-4) khi áp dụng vào bài bát cú thì cho ra 4 kiểu bát cú khác nhau là :
bát cú có 4 câu trên và 4 câu dưới đều dùng phép Niêm 1-4 2-3
bát cú có 4 câu trên và 4 câu dưới đều dùng phép Niêm 1-3 2-4
bát cú có 4 câu trên theo Niêm 1-4 2-3 và 4 câu dưới theo Niêm 1-3 2-4
và bát cú có 4 câu trên theo Niêm 1-3 2-4 với 4 câu dưới theo Niêm 1-4 2-3
2/ thi nhân đời Đường lại cho phép 4 câu trên có thể khác Luật với 4 câu dưới.
Nên về Luật cũng có 4 kiểu bát cú khác nhau như sau :
bát cú có 4 câu trên và 4 câu dưới đều dùng Luật Bằng
bát cú có 4 câu trên và 4 câu dưới đều dùng Luật Trắc
bát cú có 4 câu trên Luật Trắc và 4 câu dưới Luật Bằng
và bát cú có 4 câu trên Luật Bằng với 4 câu dưới Luật Trắc
Pha trộn 2 phần Niêm và Luật trên đây, thì trên lý thuyết có 16 kiểu (Niêm+Luật) thơ Đường Luật khác nhau.
Những bài Đường Thi mang cách chơi nói trên :
Trong phần này xin chỉ nêu tên các bài thơ : (nguyên văn và bản dịch sẽ cho ở phần sau)
hai bài tứ cú Niêm khác nhau Luật giống nhau :
KÝ THÔI THỊ NGỰ của Lý Bạch
ĐĂNG KIM LĂNG PHƯỢNG HOÀNG ĐÀI của Lý Bạch
4 câu trên theo Niêm 1-3 2-4, Luật Bằng
4 câu dưới theo Niêm 1-4 2-3, Luật Bằng
hai bài tứ cú Niêm khác nhau Luật cũng khác nhau :
ĐĂNG TÙNG GIANG DỊCH LÂU BẮC VỌNG CỐ VIÊN của Lưu Trường Khanh
4 câu trên theo Niêm 1-4 2-3, Luật Trắc
4 câu dưới theo Niêm 1-3 2-4, Luật Bằng
HOÀI CỔ TÍCH - KỲ NHỊ của Đỗ Phủ
TỐNG TIỀN VỆ HUYỆN - LÝ THẨM THIẾU PHỦ của Cao Thích
4 câu trên theo Niêm 1-3 2-4, Luật Trắc
4 câu dưới theo Niêm 1-4 2-3, Luật Bằng
hai bài tứ cú Niêm giống nhau (1-4 2-3) Luật khác nhau :
DẠ BIỆT VI TU SĨ của Cao Thích
VĂN LÂN GIA LÝ TRANH của Từ An Trinh
BÁN NHẬT THÔN của Tiền Khởi
KINH NAM ÐẠO HOÀI CỔ của Lưu Vũ Tích
4 câu trên theo Niêm 1-4 2-3, Luật Trắc
4 câu dưới theo Niêm 1-4 2-3, Luật Bằng
hai bài tứ cú Niêm giống nhau (1-3 2-4) Luật giống nhau :
(Thất Niêm vì phép Niêm 1-3 2-4 không hề được dùng đến trong dải số 1-8 2-3 4-5 6-7)
CHƯỚC TỬU DỮ BÙI DỊCH của Vương Duy
ĐỀ ĐÔNG KHÊ CÔNG U CƯ của Lý Bạch
4 câu trên theo Niêm 1-3 2-4, Luật Trắc
4 câu dưới theo Niêm 1-3 2-4, Luật Trắc
Xin lưu ý : những bài trên đây đều bị dải số 1-8 2-3 4-5 6-7 coi là thất Niêm.
Vì dải số 1-8 2-3 4-5 6-7 chỉ chấp nhận :
những bài bát cú có hai bài tứ cú Niêm giống nhau (1-4 2-3) và Luật giống nhau như :
KHÚC GIANG ÐỐI TỬU của Đỗ Phủ
4 câu trên theo Niêm 1-4 2-3, Luật Trắc
4 câu dưới theo Niêm 1-4 2-3, Luật Trắc
KHÚC GIANG NHỊ THỦ (kỳ nhị) của Đỗ Phủ
4 câu trên theo Niêm 1-4 2-3, Luật Bằng
4 câu dưới theo Niêm 1-4 2-3, Luật Bằng
Nguyên văn (và bản dịch) các bài Đường Thi vừa kể trên :
hai bài tứ cú Niêm khác nhau Luật giống nhau :
KÝ THÔI THỊ NGỰ
trên 1-3 2-4 luật Bằng + dưới 1-4 2-3 luật Bằng
Uyển khê sương dạ thính viên sầu (Niêm 1-3 2-4
Khứ quốc trường như bất hệ châu
Độc liên nhất nhạn phi Nam độ
Khước tiện song khê giải Bắc lưu
Cao nhân lũ giải Trần Phồn tháp (Niêm 1-4 2-3
Quá khách nan đăng Tạ Diễu lâu
Thử xứ biệt ly đồng lạc diệp
Triêu triêu phân tán Kính Đình thu.
Lý Bạch
GỬI QUAN THỊ NGỰ HỌ THÔI
Vượn khóc đêm sương xứ uyển khê
Như thuyền không buộc mãi xa quê
Nhạn đành lẻ một phương Nam đến
Suối chẳng chung đôi đất Bắc về
Hạ chỏng Trần Phồn còn lắm kẻ
Leo lầu Tạ Diễu khó trăm bề
Nơi đây lá rụng cùng chia biệt
Núi Kính Đình thu vẫn cách ly.
Đinh Vũ Ngọc
ĐĂNG KIM LĂNG PHƯỢNG HOÀNG ĐÀI
trên 1-3 2-4 luật Bằng + dưới 1-4 2-3 luật Bằng
Phượng Hoàng Ðài thượng phượng hoàng du (Niêm 1-3 2-4
Phượng khứ đài không giang tự lưu
Ngô cung hoa thảo mai u kính
Tấn đại y quan thành cổ khâu
Tam sơn bán lạc thanh thiên ngoại (Niêm 1-4 2-3
Nhị thủy trung phân bạch lộ châu
Tổng vị phù vân năng tế nhật
Trường An bất kiến sử nhân sầu.
Lý Bạch
LÊN ĐÀI PHƯỢNG HOÀNG Ở KIM LĂNG
Chim Phượng hoàng chơi lầu Phượng hoàng
Phượng bay lầu trống với trường giang
Cung Ngô hoa cỏ con đường rậm
Thời Tấn xiêm y nấm mộ tàn
Ngọn núi Tam Sơn trời xẻ nửa
Dòng sông Nhị Thủy bãi chia ngang
Ô hay mây nổi che trời sáng
Chẳng thấy Trường An sầu chứa chan.
Đinh Vũ Ngọc
hai bài tứ cú Niêm khác nhau Luật cũng khác nhau :
ĐĂNG TÙNG GIANG DỊCH LÂU BẮC VỌNG CỐ VIÊN
trên 1-4 2-3 luật Trắc + dưới 1-3 2-4 luật Bằng
Lệ tận giang lâu vọng Bắc quy (Niêm 1-4 2-3, Luật Trắc
Điền viên dĩ hãm bách trùng vi
Bình vô vạn lý hà nhân khứ
Lạc nhật thiên sơn không điểu phi
Cô chu dạng dạng hàn triều tiểu (Niêm 1-3 2-4, Luật Bằng
Cực phố thương thương viễn thụ vi
Bạch âu ngư phủ đồ tương đãi
Vị tảo Sam Thương lãn tức ky.
Lưu Trường Khanh
LÊN LẦU TRẠM TÙNG GIANG - TRÔNG VỀ QUÊ PHƯƠNG BẮC
Lầu sông lệ cạn trông về Bắc
Vườn ruộng trăm vòng chịu bủa vây
Vạn dặm đồng không người chẳng đến
Nghìn non chiều xuống chim còn bay
Thuyền đơn thấp thoáng triều se lạnh
Bến cũ xanh xanh cây mọc dày
Âu trắng ngư ông xin hãy đợi
Chưa qua hoạn nạn khó về ngay.
Đinh Vũ Ngọc
HOÀI CỔ TÍCH - KỲ NHỊ
trên 1-3 2-4 luật Trắc + dưới 1-4 2-3 luật Bằng
Dao lạc thâm tri Tống Ngọc bi (Niêm 1-3 2-4, Luật Trắc
Phong lưu nho nhả diệc ngô sư
Trướng vọng thiên thu nhất sái lệ
Tiêu điều dị đại bất đồng thì
Giang san cố trạch không văn tảo (Niêm 1-4 2-3, Luật Bằng
Vân vũ hoang đài khởi mộng tư
Tối thị Sở cung câu dẫn diệt
Châu nhân chỉ điểm đáo kim nghi.
Đỗ Phủ
NHỚ CHUYỆN XƯA – BÀI HAI
Tống Ngọc sầu thương cảnh rụng rơi
Phong lưu nho nhả bậc thầy tôi
Nghìn thu tưởng nhớ còn rơi lệ
Một cảnh tiêu sơ dẫu khác thời
Sông núi nhà xưa văn vẻ đó
Mây mưa đài cũ mộng mơ thôi
Thương thay cung Sở tiêu tan hết
Nơi lái thuyền xưa chỉ vẫn ngờ.
Đinh Vũ Ngọc
TỐNG TIỀN VỆ HUYỆN - LÝ THẨM THIẾU PHỦ
trên 1-3 2-4 luật Trắc + dưới 1-4 2-3 luật Bằng
Hoàng điểu phiêu phiêu dương liễu thùy (Niêm 1-3 2-4, Luật Trắc
Xuân phong tống khách sử nhân bi
Oán biệt tự kinh thiên lý ngoại
Luân giao khước ức thập niên thì
Vân khai Mấn Thủy cô phàm viễn (Niêm 1-4 2-3, Luật Bằng
Lộ nhiễu Lương Sơn thất mã trì
Thử địa tòng lai khả thừa hứng
Lưu quân bất trú ích thê kỳ.
Cao Thích
TIỄN ĐƯA QUA THIẾU PHỦ - LÝ THẨM HUYỆN TIỀN VỆ
Vút giọng oanh vàng tơ liễu buông
Gió xuân tiễn khách dạ sầu thương
Chia ly ngàn dặm bao đau xót
Gắn bó mười năm mấy vấn vương
Mấn Thủy mây giăng buồm lẻ bóng
Lương Sơn ngựa chậm núi chen đường
Nơi đây ngày trước cùng vui thú
Chẳng giữ chân anh thật đáng buồn !
Đinh Vũ Ngọc
hai bài tứ cú Niêm giống nhau (1-4 2-3) Luật khác nhau :
DẠ BIỆT VI TU SĨ
trên 1-4 2-3 luật Trắc + dưới 1-4 2-3 luật Bằng
Cao quán trương đăng tửu phục thanh (Luật Trắc
Dạ chung tàn nguyệt nhạn quy thanh
Chỉ ngôn đề điểu kham cầu lữ
Vô ná xuân phong dục tống hành
Hoàng hà khúc lý sa vi ngạn (Luật Bằng
Bạch mã tần biên liễu hướng thành
Mạc oán tha phương tạm ly biệt
Tri quân đáo xứ tẫn phùng nghinh.
Cao Thích
ĐÊM TỪ BIỆT QUAN TU SĨ HỌ VI
Cao quán giăng đèn bày tiệc rượu
Trăng khuya chuông vọng nhạn về mau
Tiếng chim đêm gọi như tìm bạn
Ngọn gió xuân vờn để tiễn nhau
Lấn cát Hoàng Hà dòng uốn khúc
Hướng thành Bạch mã liễu tươi màu
Chớ buồn đất khách cùng chia biệt
Anh đến nơi đâu chẳng đón chào !
Đinh Vũ Ngọc
VĂN LÂN GIA LÝ TRANH
trên 1-4 2-3 luật Trắc + dưới 1-4 2-3 luật Bằng
Bắc đẩu hoành thiên dạ dục lan (Luật Trắc
Sầu nhân ỷ nguyệt tứ vô đoan
Hốt văn họa các Tần tranh dật
Tri thị lân gia Triệu nữ đàn
Khúc thành hư ức song nga liễm (Luật Bằng
Điệu cấp giao liên ngọc chỉ hàn
Ngân thược trùng quan thính vị tịch
Bất như miên khứ mộng trung khan.
Từ An Trinh
NGHE ĐÀN TRANH NHÀ HÀNG XÓM
Bắc đẩu ngang trời đêm sắp tan
Buồn trong trăng sáng ý mơ màng
Chợt nghe gác họa âm Tần vọng
Mới biết nhà bên gái Triệu đàn
Khúc trọn hẳn chau đôi mắt ngọc
Điệu mau e buốt ngón tay vàng
Lắng nghe then khóa còn chưa mở
Ngủ quách may ra mộng gặp nàng.
Đinh Vũ Ngọc
BÁN NHẬT THÔN
trên 1-4 2-3 luật Trắc + dưới 1-4 2-3 luật Bằng
Bán Nhật ngô thôn đới vãn hà (Luật Trắc
Nhàn môn cao liễu loạn phi nha
Hoành vân lĩnh ngoại thiên trùng thụ
Lưu thủy thanh trung nhất lưỡng gia
Sầu nhân tạc dạ tương tư khổ (Luật Bằng
Nhuận nguyệt kim niên xuân ý xa
Tự thán Mai Sinh đầu tự tuyết
Khước liên Phan Lệnh huyện như hoa.
Tiền Khởi
THÔN BÁN NHẬT
Ráng tỏa trời chiều Bán Nhật thôn
Chim bay liễu rủ trước nhàn môn
Ngàn trùng cây núi làn mây phủ
Vài nóc nhà bên suối nước tuôn
Ðêm trước người buồn vương nhớ mãi
Năm nay tháng nhuận ý xuân dồn
Ðã thương Phan Lệnh hoa đầy huyện
Ðầu bạc Mai Sinh lại xót hơn.
Bùi Khánh Ðản
KINH NAM ÐẠO HOÀI CỔ
trên 1-4 2-3 luật Trắc + dưới 1-4 2-3 luật Bằng
Nam quốc sơn xuyên cựu đế kỳ (Luật Trắc
Tống đài Lương tạ thượng y hi
Mã tê cổ thụ hành nhân yết
Mạch tú hoang thành dã trĩ phi
Phong xuy lạc diệp điền cung tỉnh (Luật Bằng
Hoả nhập hoang lăng hóa bảo y
Ðồ sử Từ thần Dữu Khai phủ
Hàm Dương chung nhật khổ tư quy.
Lưu Vũ Tích
ÐẠO KINH NAM HOÀI CỔ
Ðô cũ miền Nam ở chốn này
Ðình Lương đài Tống dấu còn đây
Cây cao ngựa hí hành nhân vắng
Lúa tốt thành hoang dã trĩ bay
Lăng cũ áo bào mồi lửa đốt
Cung xưa giếng ngự lá thu đầy
Lòng quê cám cảnh Từ thần Dữu
Ở đất Hàm Dương nhớ suốt ngày.
Bùi Khánh Ðản
hai bài tứ cú Niêm giống nhau (1-3 2-4) Luật giống nhau :
(Thất Niêm vì phép Niêm 1-3 2-4 không hề được dùng đến trong dải số 1-8 2-3 4-5 6-7)
CHƯỚC TỬU DỮ BÙI DỊCH của Vương Duy
trên 1-3 2-4 luật Trắc + dưới 1-3 2-4 luật Trắc
Chước tửu dữ quân quân tự khoan (Niêm 1-3 2-4, Luật Trắc
Nhân tình phiên phúc tự ba lan
Bạch thủ tương tri do án kiếm
Chu môn tiên đạt tiếu đàn quan
Thảo sắc toàn kinh tế vũ thấp (Niêm 1-3 2-4, Luật Trắc
Hoa chi dục động xuân phong hàn
Thế sự phù vân hà túc vấn
Bất như cao ngọa thả gia xan.
Vương Duy
RÓT RƯỢU MỜI BÙI DỊCH
Mời anh cạn chén để nguôi sầu
Tráo trở tình đời khác sóng đâu
Tóc trắng quen thân còn thủ kiếm
Cửa son hiển đạt lại cười nhau
Mưa dầm cỏ dại càng phơi phới
Gió lạnh hoa xuân chịu dãi dầu
Chuyện thế mây trôi thôi chớ hỏi
Chi bằng ăn ngủ khỏi lo âu.
Đinh Vũ Ngọc
ĐỀ ĐÔNG KHÊ CÔNG U CƯ
trên 1-3 2-4 luật Trắc + dưới 1-3 2-4 luật Trắc
Đỗ Lăng hiền nhân thanh thả liêm (Niêm 1-3 2-4, Luật Trắc, bỏ Luật chữ ‘Lăng’
Đông Khê bốc trúc tuế thời yêm
Trạch cận thanh sơn đồng Tạ Diễu
Môn thùy bích liễu tự Đào Tiềm
Hảo điểu nghinh xuân ca hậu viện (Niêm 1-3 2-4, Luật Trắc
Phi hoa tống tửu vũ tiền thiềm
Khách đáo đãn tri lưu nhất túy
Bàn trung chi hữu thủy tinh diêm.
Lý Bạch
ĐỀ CHỖ Ở ẨN CỦA ĐÔNG KHÊ CÔNG
Đỗ Lăng đã nổi tiếng người hiền
Về ẩn Đông Khê trải mấy niên
Nhà cận núi xanh như Tạ Diễu
Cửa buông liễu biếc tựa Đào Tiềm
Đón xuân chim quý ca sau viện
Mời rượu hoa bay múa trước hiên
Khách đến nài nhau say một bữa
Trong mâm chỉ có muối tinh nghiền.
Đinh Vũ Ngọc
Nhắc lại những bài trên đây đều bị dải số 1-8 2-3 4-5 6-7 coi là thất Niêm.
Dải số 1-8 2-3 4-5 6-7 chỉ chấp nhận những bài Đường Thi cùng loại với hai bài dưới đây :
Loại bát cú Đường Thi được dải số 1-8 2-3 4-5 6-7 chấp nhận :
KHÚC GIANG ÐỐI TỬU
trên 1-4 2-3 luật Trắc + dưới 1-4 2-3 luật Trắc
Uyển ngoại giang đầu tọa bất quy (Niêm 1-4 2-3, Luật Trắc
Thủy tinh cung điện chuyển phi vi
Ðào hoa tế trục dương hoa lạc
Hoàng điểu thời kiêm bạch điểu phi
Túng ẩm cửu biền nhân cộng khí (Niêm 1-4 2-3, Luật Trắc
Lãn triều chân dữ thế tương vi
Lại tình cánh giác Thương Châu viễn
Lão đại đồ thương vị phất y.
Ðỗ Phủ
UỐNG RƯỢU TRÊN SÔNG KHÚC GIANG
Ngồi mãi bên vườn bến Khúc Giang
Thủy tinh cung điện bóng mờ gương
Hoa tơi tả rụng đào chen liễu
Chim nhởn nhơ bay trắng lẩn vàng
Chén rượu thường say người đã chán
Phiên chầu vẫn trễ tiếng còn mang
Biết rằng hoạn lộ xa tiên cảnh
Tuổi tác chưa về nghĩ tự thương.
Bùi Khánh Ðản
KHÚC GIANG NHỊ THỦ (kỳ nhị)
trên 1-4 2-3 luật Bằng + dưới 1-4 2-3 luật Bằng
Triều hồi nhật nhật điển xuân y (Niêm 1-4 2-3, Luật Bằng
Mỗi nhật giang đầu tận túy quy
Tửu trái tầm thường hành xứ hữu
Nhân sinh thất thập cổ lai hi
Xuyên hoa giáp điệp thâm thâm hiện (Niêm 1-4 2-3, Luật Bằng
Ðiểm thủy thanh đình khoản khoản phi
Truyền ngữ phong quang cộng lưu chuyển
Tạm thời tương thưởng mạc tương vi.
Ðỗ Phủ
HAI BÀI THƠ TRÊN SÔNG KHÚC GIANG (bài hai)
Mỗi buổi chầu lui thường cố áo
Bên sông say khướt mới ra về
Vài ba nợ rượu đâu không có
Bẩy chục đời người dễ mấy khi
Cánh bướm vờn hoa bay thấp thoáng
Ðuôi chuồn giỡn nước kéo lê thê
Xưa nay quang cảnh cùng thay đổi
Ðược lúc vui chơi há ngại gì.
Bùi Khánh Ðản
Tóm lại dải số 1-8 2-3 4-5 6-7 chỉ dùng 2 trong số 16 phép Niêm lý thuyết trong cách chơi của thi nhân đời Đường.
Bị gọi thất Niêm là những bài thơ nằm trong số 14 phép Niêm còn lại.
Vì nhận thấy số bị coi là thất Niêm quá nhiều nên Quách-Tấn cũng không đồng ý với cách giải thích « đại gia văn chương bất câu Niêm Luật » :
’’ Có người trông thấy những bài thơ Thất Niêm Thất Luật phần nhiều là của các danh gia, cho nên bảo « Ðại gia văn chương bất câu Niêm Luật ». Sự thật, niêm luật đối với người đã thạo nghề chẳng khác những đường mòn trong xóm đối với người địa phương, muốn đi cho đúng có khó khăn gì. Thiết tưởng sự Thất Niêm Thất Luật kia là cố tình chớ không phải sơ ý. Tất có lý do. Nhưng dù chi chi đi nữa, chúng ta - kẻ hậu học - vẫn không nên bắt chước.’’ (trích Thi Pháp Thơ Ðường của Quách-Tấn, trang 168)
Tuy chưa thấy cái lý do, nhưng Quách-Tấn vẫn quả quyết là « việc dùng Niêm/Luật theo những cách ấy tất có lý do ». Và cái lý do đó chúng ta đã thấy như trên : « Hai bài tứ cú của bài bát cú được phép dùng Niêm và Luật khác nhau. »
Vì lý do khó chấp nhận câu « Đại gia văn chương bất câu Niêm Luật » nên một số khác tìm cách gán ép gọi những bài đó là thơ Cổ Phong :
Để có thể gọi những bài Đường thi đó là thơ Cổ Phong, người ta dùng một bài thơ Đường luật làm mẫu, sau khi thêm vào 1 chữ khiến cho câu đầu (lục ngôn thể) bị nát bét về Luật.
Đó là bài « Vịnh Dế Duỗi » của Tú Quỳ.
Câu đầu dùng lục ngôn thể là : « Kiến chẳng kiến, voi chẳng voi »
Ý tác giả muốn nói rằng con dế duỗi chẳng nhỏ như con kiến, mà cũng chẳng to như con voi.
Người ta thêm vào một chữ ‘phải’ : « Kiến chẳng phải kiến voi chẳng voi »
khiến cho ba chữ nhì tứ lục đều là Trắc.
Trong khi đó nếu thêm đúng ý tác giả là : « Kiến chẳng kiến mà voi chẳng voi »
thi câu thơ sẽ có ba chữ nhì tứ lục phân minh.
Nhận xét từng câu của bài thơ Vịnh Dế Duỗi so với thơ Cổ Phong thì thấy như sau :
VỊNH DẾ DUỖI
Kiến chẳng kiến (mà) voi chẳng voi - lục ngôn thể nếu bỏ chữ (mà)
Ðời sanh dế duổi cũng choi choi (nhì tứ lục phân minh, dùng chung vần
Ngắn cánh lên trời không đủ sức ) - nhì tứ lục phân minh, đối tốt
Co tay vạch đất cũng khoe tài ) - nhì tứ lục phân minh, dùng chung vần
Mưa tuôn gió tạt lên cao ở } (nhì tứ lục phân minh, đối tốt
Lửa bỏng dầu sôi nhảy đến chơi } (nhì tứ lục phân minh, dùng chung vần
Quân tử có thương thời chớ phụ - nhì tứ lục phân minh
Ðể cho bay nhảy thử mà coi. - nhì tứ lục phân minh, dùng chung vần
Tú Quì
Đây đúng là một bài thơ Đường Luật, vì trong mỗi câu các chữ nhì tứ lục đều phân minh, hai cặp 3-4 và 5-6 đối nhau chỉnh tề, toàn bài chỉ dùng có một vần, và chỉ dùng 8 câu. (Chỉ có phần Niêm không theo dải số 1-8 ….)
Còn thơ Cổ Phong thất ngôn (7 chữ mỗi câu) đúng theo định nghĩa thì phải là :
- toàn bài có thể dùng 6, 8, 10, 12 câu (vậy tại sao không chọn bài mẫu khác hơn 8 câu ?)
- toàn bài có thể dùng nhiều vần (vậy tại sao không chọn bài mẫu có hơn một vần ?)
- không cần phải đối (vậy tại sao không chọn bài mẫu không có đối ?)
- không cần theo Niêm Luật (vậy tai sao không chọn bài mẫu với nhì tứ lục chẳng phân minh ?
Như trên vừa cho thấy : bài Vịnh Dế Duỗi không mang một đặc điểm riêng nào của thơ Cổ Phong. Nhưng người ta vẫn gượng ép dùng nó để có thể xếp vào loại thơ Cổ Phong những bài Đường thi không theo dải số 1-8 2-3 4-5 6-7.
Tìm hiểu nguyên nhân phát sinh ra dải số 1-8 2-3 4-5 6-7
Dải số đó tương ứng với hai cách Niêm thông dụng và có nhiều bài nhất, của loại thơ Thất ngôn bát cú Đường Thi.
Ở thời khoa cử, người ta có lý do để qui định cho các sĩ tử chỉ dùng hai thể thơ thông dụng nhất đó thôi.
Vì nếu áp dụng tất cả kỹ thuật nêu trên của Đường Thi, với 16 cách Niêm trên lý thuyết, thì việc chấm thi sẽ rất phiền toái và mất nhiều thì giờ.
Nếu giả thuyết trên đây là đúng thì dải số 1-8 2-3 4-5 6-7 chỉ có công dụng lớn cho giới khoa trường.
Nhưng nó chỉ bao gồm hai trong 16 cách chơi lý thuyết của thi nhân đời Đường. Nên nó không có khả năng để đo lường sự sai Niêm, đúng Niêm của tất cả 16 cách.
Thi nhân tiền bối của chúng ta
Nên ngoài khoa trường, thi nhân tiền bối của chúng ta vẫn chơi theo cách phóng khoáng của thi nhân đời Đường, dĩ nhiên phần lớn thơ của họ vẫn theo dải số 1-8 2-3 4-5 6-7, nhưng họ cũng có làm những bài thơ thuộc loại nằm ngoài dải số như :
bài VỊNH DẾ DUỖI nêu trên của Tú Quỳ.
Trên 1-3 2-4 luật Trắc + dưới 1-4 2-3 luật Bằng
HÀ TIỆN
Trên 1-4 2-3 luật Bằng + dưới 1-4 2-3 luật Trắc
Giàu thì ba bữa khó thì hai (Luật Bằng
Lần lữa cho qua tháng thiếu đầy
Nón đổi lá ngoài quần đổi ống
Dép thay da mặt túi thay quai
Dặn vợ có cà đừng gắp mắm (Luật Trắc
Bảo con bớt gạo bỏ thêm khoai
Thế gian mặc kẻ cười hà tiện
Ta chẳng phiền ai chẳng lụy ai.
Nguyễn-Minh-Triết
(chắc là không phải ông Triết hiện nay)
DĨ HÒA VI QUÝ
trên 1-3 2-4 Trắc + dưới 1-4 2-3 Trắc
Ở thế đừng tranh tiếng trượng phu (Niêm 1-3 2-4
Làm chi cho có sự đôi co
Đây cậy đây khôn đây chẳng nhịn
Ðấy rằng đấy phải đấy không thua
Duật nọ hãy còn đua đến bạng (Niêm 1-4 2-3
Lươn kia hầu dễ kém chi cò
Chữ rằng : Nhân dĩ hòa vi quý
Vô sự thì hơn khỏi phải lo.
Nguyễn-Bỉnh-Khiêm
ÐỘC TIỂU THANH KÝ
trên 1-4 2-3 Bằng + dưới 1-3 2-4 Bằng
Tây Hồ mai uyển tẫn thành khư (Niêm 1-4 2-3
Ðộc điếu song tiền nhất chỉ thư
Chi phấn hữu thần liên tử hậu
Văn chương vô mệnh lụy phần dư
Cổ kim hận sự thiên nan vấn (Niêm 1-3 2-4
Phong vận kỳ oan ngã tự cư
Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như.
Nguyễn-Du
Thơ « phá cách » đúng nghĩa
Trong số Đường Thi có dịp đọc qua, tôi chỉ gặp duy nhất một bài thơ đáng gọi là thơ « phá cách » sau đây :
VÕNG XUYÊN BIỆT NGHIỆP
trên 1-4 2-3 Trắc + dưới 1-2 3-4 Trắc
Bất đáo Đông sơn hướng nhất niên (trên theo Niêm 1-4 2-3 của thơ tứ cú
Qui lai tài cập chủng xuân điền
Vũ trung thảo sắc lục kham nhiễm
Thủy thượng đào hoa hồng dục nhiên
Ưu lậu tỳ khưu kinh luận học (dưới Niêm theo 1-2 3-4 chưa hề thấy)
U lũ trượng nhân hương lý hiền
Phi y đảo tỷ thả tương kiến
Tương hoan ngữ tiếu hành môn tiền.
Vương Duy
BIỆT THỰ Ở VÕNG XUYÊN
Đông Sơn chẳng đến trọn năm nay
Về gặp mùa xuân kịp cấy cày
Cỏ dại trong mưa xanh biếc biếc
Hoa đào trên nước đỏ hây hây
Tỳ hưu học đạo bàn kinh kệ
Bô lão làm gương giữ tháng ngày
Khoát áo trở giày tìm gặp bạn
Nói cười trước cổng thật vui thay !
Đinh Vũ Ngọc
Bài Đằng Vương Các của Vương Bột
Bài Đằng Vương Các của Vương Bột cũng không phải là thơ thất Niêm hay thơ Cổ Phong. Bài ấy vẫn là một bài Đường Luật nằm trong cách chơi phóng khoáng của thi nhân đời Đường với sự khác Niêm giữa 4 câu trên và 4 câu dưới. Nhưng Vương Bột phóng khoáng thêm hơn chút nữa là :
Dùng 3 chữ vần cho mỗi bài tứ cú*
Tuy là cùng một vần, nhưng bài tứ cú trên với 3 chữ vần Trắc, và bài tứ cú dưới với 3 chữ vần Bằng.
* thông thường thì bài tứ cú dưới chỉ dùng 2 chữ vần, để dễ viết cho cặp 5-6 của bài bát cú được đối nhau.
ÐẰNG VƯƠNG CÁC
trên 1-4 2-3 luật Bằng, 3 vần « u » thanh Trắc
+ dưới 1-3 2-4 luật Bằng, 3 vần « u » thanh Bằng
Ðằng Vương cao các lâm giang chử
Bội ngọc minh loan bãi ca vũ
Họa đống triêu phi Nam phố vân
Châu liêm mộ quyển Tây sơn vũ
Nhàn vân đàm ảnh nhật du du
Vật hoán tinh di kỷ độ thu
Các trung đế tử kim hà tại ?
Hạm ngoại trường giang không tự lưu.
Vương Bột
ÐẰNG VƯƠNG CÁC
Bến sông cao ngất Ðằng Vương Các
Múa hát im rồi loan ngọc đâu
Nam Phố mây bay quanh cột vẽ
Tây Sơn mưa cuốn trước rèm châu
Mây trôi đầm ánh từ bao độ
Vật đổi sao dời đã mấy thu
Ðế tử không còn trơ gác vắng
Trường Giang muôn thuở chảy bên lầu.
Bùi Khánh Ðản
Kết luận :
Nay không còn là thời kỳ khoa cử.
Nhưng người làm thơ lắm khi thích tìm cái khó để trổ tài. Làm thơ theo dải số 1-8 2-3 4-5 6-7 cũng là thêm một chút khó. Với cái khó đó mà cống hiến được cho làng thơ những bài thơ hay là điều đáng ca ngợi, chẳng ai mong muốn gì hơn.
Nhưng việc gọi những bài TNBC Đường Thi danh tiếng của Lý Bạch, Đỗ Phủ … Nguyễn Du là thơ phá cách, thơ thất Niêm hay thơ Cổ Phong, chỉ vì chúng nằm ngoài dải số, thì quả là không đúng.
Vì như trên đã trình bày, dải số 1-8 2-3 4-5 6-7 chỉ tương ứng với 2 trong 16 cách Niêm-Luật mà thi nhân đời Đường áp dụng. Nên rất có thể nó chỉ là sản phẩm của giới khoa trường. Họ có lý do để chỉ dùng hai thể thơ thông dụng nhất và có nhiều tác phẩm nhất, tránh việc dùng tất cả 16 cách Niêm-Luật để tiện cho việc chấm thi.
Mặt khác, công dụng của Niêm và Luật là chỉ tắt cho ta thấy cách viết ra những câu thơ có âm điệu tốt, dễ nghe, hoặc tránh được sự khổ độc.
Những bài thơ bị dải số 1-8 2-3 4-5 6-7 xếp vào loại Thất Niêm thực sự không phải là « thất Niêm » mà chỉ là « khác Niêm », nên đều có âm điệu hoàn hảo, chẳng ai nêu ra được là những bài thơ ấy bị kém đi phần âm vận ở chỗ nào ?
Và nếu lấy công tâm và sự thẩm âm riêng mà nhận xét thì có thể có người thấy ngược lại như sau :
Trong bài Hà Tiện : Câu « Dặn vợ có cà đừng gắp mắm » khiến cho nhạc điệu bốc lên rất mạnh, nhờ đổi Luật.
Trong bài Dĩ Hòa Vi Quý : câu « Đây cậy đây khôn đây chẳng nhịn » cũng có tác dụng tương tự, nhờ áp dụng phép Niêm 1-3 2-4.
- Nhắc lại : Nay không còn là thời kỳ khoa cử.
- Phần kỹ thuật của thi nhân đời Đường đã được mỗ xẻ phân tách đúc kết như trên, cho thấy cách chơi của họ rộng rãi phóng khoáng hơn cách chơi quy định bởi dải số dùng chấm thi của thời khoa cử.
- Mọi người chúng ta hoàn toàn tự do để chọn lựa cách chơi : theo thi nhân đời Đường hay theo dải số của giới khoa cử cũng đều tốt cả. Vì cách nào cũng cho được những bài thơ hay cho làng thưởng thức.
- Nhưng phải trả lại César những gì của César.
Những bài thơ bị gọi oan uổng là thất Niêm kia phải được thanh minh và được có mặt trong mọi trang Đường Thi, thay vì bị gạt ra ngoài như hiện tại.
Rất mong được nghe những lời cao luận.
Trân trọng kính chào quý vị.
Xướng họa đường thi Thất Ngôn Bát Cú là thể thơ thông dụng và được yêu chuộng nhất trong các thể loại thơ Đường
Cơ Bản như sau :
I . BỐ CỤC :
Một bài thơ TNBC gồm có 8 câu , mỗi câu 7 chữ, chia ra như sau :
Một bài thơ Thất Ngôn Bát Cú có 4 phần:
1- Mạo: là mào đầu (vào bài) còn gọi là Đề, gồm:
+ Phá đề (câu 1) nghĩa là mở ra, giới thiệu tựa đề.
+ Thừa đề (câu 2) nghĩa là chuyển xuống.
2- Thực hay Trạng: gồm câu 3 + 4: giải thích, khai triển tựa đề.
3- Luận: gồm câu 5+6: bàn luận ý nghĩa của bài.
4- Kết: gồm câu 7+8: tóm tắt ý nghĩa, bày tỏ tình cảm, thái độ.
II. VẬN :
Các chữ cuối câu thứ 1,2,4,6,8 phải vần với nhau
Thí dụ : tà ,hoa,nhà,gia, ta
III. ĐỐI :
Đây là điều thú vị và khó nhất của thể TNBC
- Hai câu thực phải đối nhau( câu 3 đối với câu 4 )
- Hai câu Luận cũng vậy ( Tức câu 5 phải đối với câu 6 )
- Đối nghĩa là :
+ Đối Ý : đồng hoặc nghịch nghĩa
+ Đối từ : Danh từ đối danh từ ; động từ đối với động từ ; tính từ đối với tính từ….
+ Đối hình ; đối thanh
Thí dụ :
Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn người đến chốn lao xao
(Ng. Bỉnh Khiêm )
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
(Bà Huyện Thanh Quan)
Giơ tay với thử trời cao thấp
Xoạc cẳng đo xem đất ngắn dài
( Hồ Xuân Hương )
Đây là thí dụ chuẩn mực:
CẢNH CHIỀU HÔM
Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn
Tiếng ốc xa đưa vẳng trống dồn
Gác mái ngư ông về viễn phố
Gõ sừng mục tử lại cô thôn
Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi
Dặm liễu sương sa khách bước dồn
Kẻ chốn chương đài ,người lữ thứ
Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn
(Bà Huyện Thanh Quan )
Nhưng không chỉ có thế.Thất Ngôn Bát Cú còn rất nhiều Niêm Luật khắt khe và chặt chẽ. Nếu bạn yêu và muốn làm thơ TNBC thì mời tìm hiểu sâu hơn :
NIÊM LUẬT CỦA THẤT NGÔN BÁT CÚ
KHÁI NIỆM :
Thanh âm Việt ngữ chia thành 2 loại vần: trắc và bằng
- Vần bằng : là các từ mang dấu huyền và không dấu
- Vần trắc : là các từ mang dấu sắc ,hỏi,ngã, nặng
- Vần của câu : Trong TNBC mỗi câu có 7 chữ. Chữ thứ hai của mỗi câu là khóa vần của câu ( có thể ví như khóa sol,khóa Fa trong âm nhạc vậy)
Thí Dụ :
Bước tới đèo Ngang,bóng xế tà (câu này vần trắc căn cứ vào chữ tới )
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo ( Câu này vần bằng )
NIÊM :
Niêm có nghĩa là dán.
- Câu 1 phải niêm với câu 8, có nghĩa là nếu câu 1 có vần của câu là bằng thì vần của câu 8 cũng phải là bằng; ngược lại nếu là trắc thì đều phải là trắc
- Câu 2 niêm với câu 3
- Câu 4 niêm với câu 5
- Câu 6 niêm với câu 7
Thí Dụ :
Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng
Lặn lội thân cò khi quãng vắng
( Thương vợ -Tú Xương )
LUẬT VẦN :
- Trong một bài thơ Thất Ngôn Bát Cú mỗi từ đều phải tuân theo luật vần đã được qui định bắt buộc .
- Có 2 bộ Luật Vần : BẰNG và TRẮC căn cứ vào vần của câu đầu bài thơ
I…VẦN BẰNG
Câu 1: BBTTTBB
Câu 2: TTBBTTB
Câu 3: TTBBBTT
Câu 4: BBTTTBB
Câu 5: BBTTBBT
Câu 6: TTBBTTB
Câu 7: TTBBBTT
Câu 8: BBTTTBB
Thí Dụ :
THU ĐIẾU
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo
Tầng mây lơ lửng ,trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co, khách vắng teo
Tựa gối buông cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
( Nguyễn Khuyến )
II…VẦN TRẮC :
Câu 1: TTBBTTB
Câu 2: BBTTTBB
Câu 3: BBTTBBT
Câu 4: TTBBTTB
Câu 5: TTBBBTT
Câu 6: BBTTTBB
Câu 7: BBTTBBT
Câu 8: TTBBTTB

Thí Dụ :
BẠN ĐẾN CHƠI NHÀ
Đã bấy lâu nay, bác tới nhà,
Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa.
Ao sâu nước cả, khôn chài cá,
Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà.
Cải chửa ra cây, cà mới nụ,
Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa.
Đầu trò tiếp khách, trầu không có,
Bác đến chơi đây, ta với ta !
( Nguyễn Khuyến )
- Thơ, chữ nào đáng đặt tiếng bằng mà lại đặt tiếng trắc, hay đáng đặt tiếng trắc mà lại đặt tiếng bằng thì gọi là thất luật.
- Tuy nhiên ta có thể áp dụng nguyên tắc:”Nhất ,tam,ngũ bất luận” tức là chữ thứ nhất, thứ ba , thứ năm của mỗi câu có thể tự do miễn là không tạo lỗi khi ngâm đọc.
LUẬT VẬN :
- Như đã nói ở phần CƠ BẢN ,các chữ cuối các câu 1,2,4,6,8 phải vần với nhau
Thí dụ: Trong bài Thu Điếu là các từ: veo,teo,vèo, teo,bèo. Đây là các từ chính vận
- Đôi khi người ta có thể dùng “Thông vận “ cũng được như : vui có thể thông vận với đời, ôi,soi…
- Nếu bài thơ không giữ được điều này thì gọi là Thất Vận
LUẬT ĐỐI :
- Như đã nói ở phần CƠ BẢN : 2 câu Thực là cặp câu đối; 2 câu Luận cũng vậy
- Đối phải đối ý, đối từ, đối thanh, đối hình, đối láy, đối điệp…
- Nếu bài thơ đối không chuẩn thì gọi là Thất Đối , đây là bệnh nặng nhất của TNBC
Thí dụ một số câu đối điển hình:
*Thi sĩ Hồ Xuân Hương
Khi cảnh, khi tiu, khi chũm chọe
Giọng hi, giọng hỉ, giọng hi ha
(Sư Hổ Mang)
Gió giật sườn non kêu lắc cắc
Sóng dồn mặt nước vỗ long bong
(Kẽm Trống)
* Thi sĩ Nguyễn Khuyến:
Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt
Làn ao lóng lánh ánh trăng loe
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
* Thi sĩ Trần Tế Xương:
Học đã sôi cơm nhưng chửa chín
Thi không ăn ớt thế mà cay
Đì đẹt ngoài sân tràng pháo chuột
Om sòm trên vách bức tranh gà
Chí cha chí chát khua giày dép
Đen thủi đen thui cũng lụa là
Van nợ lắm khi trào nước mắt
Chạy ăn từng bữa toát mồ hôi
Sĩ khí rụt rè gà phải cáo
Văn chương liều lĩnh đấm ăn xôi
Một tuồng rách rưới con như bố
Ba chữ nghêu ngao vợ chán chồng
Ví cho thi đỗ làm quan lớn
Thì cũng nhỏ to cưới chị hầu
Tiễn chân cô mất hai đồng lẻ
Sờ bụng thầy không một chữ gì
MỘT SỐ LUẬT KHÁC :
- Tiết nhịp :
Một câu thường được ngắt nhịp như sau :2-2-3
Nếu viết không theo luật này thì bài thơ sẽ hỏng khi ngâm đọc
- Hạc ất phong yêu :
Có nghĩa là Gối Hạc, Lưng Khỉ
Lỗi Hạc tất khi chữ thứ 4 trong một câu cùng dấu với chữ 7 câu đó
Lỗi Phong yêu khi chữ thứ 2 cùng dấu với chữ 7 câu đó
Tuy nhiên đây được xem như bệnh ngoài da, có thể châm chước, trừ một số trường hợp đọc lên không ổn thì hỏng bài thơ
- Khổ đọc :
Trong bài thất ngôn, chữ thứ 3 các câu chẵn và chữ thứ 5 các câu lẻ, đáng là bằng mà đổi ra trắc gọi là khổ độc (nghĩa là khó đọc). Trong 1 câu
- Nghệ thuật xướng họa :
Xướng họa thơ đường là thú thanh tao đầy cảm hứng và nghệ thuật
Bài họa là một bài thơ TNBC hoàn chỉnh phải tuân theo tất cả niêm luật có chủ đề theo bài xướng ) đồng ý, phản bác hoặc mở rộng ý của bài xướng )
Ngoài ra bài họa còn phải giữ nguyên 5 từ cước vận ( chữ cuối các câu 1,2,4,6,8)
Năm từ cước vận có thể giữ nguyên vị trí hoặc đổi vị trí theo thứ tự ngược lại( gọi là đảo vận), cũng có thể đổi chỗ tùy thích (gọi là hoán vận )
Ngoài ra bài họa còn phải tuân thủ luật Khắc Lục
- Khắc lục :
Các chữ thứ 6 của các câu 1,2,4,6,8 của bài họa không được lập lại các chữ thứ 6 của các câu 1,2,4,6,8 của bài xướng.
- tám bệnh thường gặp của ĐL TNBC và 12 lỗi:
1, bình đầu. 2,thượng vĩ. 3phong yêu. 4, hạc tất 5, bàng nữu. 6,chánh nữu. 7,đại vận.8,tiểu vận
- 1, lạc vận. 2, lạc đề. 3,thất niêm, luật.4,thất đối.5, khổ độc.6, điệp thanh. 7,điệp điệu.8.điệp âm.9, trùng vận.10,trùng từ/điệp từ.11,trùng ý,hiệp chưởng.12,mạ đề.
…Thi phú vốn vẫn là thú chơi tao nhã của các bậc sĩ ngày xưa. Ngày xuân xin mạo muội ghi lại vài dòng hy vọng vẫn còn có những người yêu nó trân trọng nó. và mong rằng những người cùng đồng điệu sẽ được chia sẻ. chúc một năm mới an hảo và toại ý.

Tài Liệu Tham Khảo
Wikipedia – Ái Hoa
Dương Quảng Hàm – Văn Học Việt Nam
Quách Tấn – Thi Pháp Thơ Đường
NHỮNG LỖI - BỆNH TRONG KHI LÀM THƠ ĐƯỜNG LUẬT
Bệnh của Đường thi
(Thể thất ngôn)
1. Bệnh Bình Đầu
2. Bệnh Thượng Vỹ
3. Bệnh Phong Yêu
4. Bệnh Hạc Tất
5. Bệnh Bàng Nữu
6. Bệnh Chánh Nữu
7. Bệnh Đại Vận
8. Bệnh Tiểu Vận
Lỗi của Đường thi
1. Lạc vận
2. Lạc đề
3. Thất niêm, thất luật
4. Thất đối
5. Khổ độc
6. Điệp thanh
7. Điệp điệu
8. Điệp âm
9. Trùng vận
10. Trùng từ/ Điệp từ
11. Trùng ý / Hiệp Chưởng
12. Phạm đề/ Mạ đề
******************************************************
1. Thất luật
Để biết một bài thơ có thất luật hay không thì nhìn vào các chữ thứ 2, 4, 6.
Trong mỗi cặp câu thì các chữ thứ 2, 4, 6 của câu trên phải khác nhóm thanh (bằng hay trắc) với chữ thứ 2, 4, 6 của câu dưới.
Trong cùng một câu thì chữ thứ 2 phải khác nhóm thanh với chữ thứ 4 và cùng nhóm thanh với chữ thứ 6. Ví dụ bài thơ thất luật:
TỰ TRÀO
Vùng đất Sơn Tây nảy một ông
Tuổi chửa bao nhiêu văn rất hùng
Sông Đà núi Tản ai hun đúc
Bút thánh câu thần sớm vãi vung
Chữ chữ nôm nôm nào kém cạnh
Khuyên khuyên điểm điểm có hay không
Bởi ông hay quá ông không đổ
Không đổ ông càng tốt bộ ngông
ThíchHiển thị thêm cảm xúc
Bình luận
3 bình luận
Bình luận
Văn Trường Phạm Thơ Luật Đường Việt Hoá Bạn nghe thử 23. ĐÈO NGANG
Đèo Ngang còn đó Bà ở đâu
Cỏ hoa tươi rói dạ lại sầu

Vinh hoa phú quý đang đón đợi 
Ai biết lòng Bà mang nỗi đau
Lắng hồn nhớ chuyện trăm năm trước
Niềm nhà nỗi nước chẳng hoà nhau @
Đường Nay Ngàn Dặm chim bay mỏi
Bon bon Xa Lộ tới Cà Mau...!
Trên đỉnh Đèo Ngang Nhớ Bà Hinh hè 1994
@Gia cảnh Bà lúc nhận mệnh Vua vào Huế làm Cung Trung Giáo Tập:Chồng Bà ,quan Lưu Nguyên Ôn vừa mất,tứ thân phụ mẫu đã già ,con còn nhỏ...Nỗi nhớ Nhà Lê còn day dứt...Thế mà không thể trái mệnh...
ThíchHiển thị thêm cảm xúc
Trả lời
1
10 giờĐã chỉnh sửa
Bằng Chu Cảm ơn bác Đang đã giải thích rất rõ ràng các loại luật thơ. Tuyệ t vời !
ThíchHiển thị thêm cảm xúc
Trả lời8 giờ
Bằng Chu Khó hiểu ở chỗ "Việt hoá" ? Thơ Đường chỉ Việt hoá qua Hàn luật, do Hàn Thuyên đầu triều Nguyễn.
Chỉ thay đổi so với Đường luậ̣t về hài thanh ở các chữ 1,3,5 trong mỗi câu:
"Nhất tam ngũ bất luận

"Nhì tứ lục phân minh"
(1,3,5 miễn tính
2,4,6 cần theo)
Nghĩa là chỉ các chữ 3,4,6 trong câu mới phải tuân luật thanh bằng trắc; các chữ 1,3,5 được tự do miễn theo thanh luật.
Nhưng bài thơ trên không hề được như vậy. Có́ ́ ́ thể gọi đây là thể tự do thỉ đúng hơn. Nếu nói thơ Đường Việt hoá là khó hiễu, khó hiểu, nếu không nói là không thể chấp nhận được !
ThíchHiển thị thêm cảm xúc
Trả lời5 giờ
Đang Đinh Duy
Viết bình luận...
Nhấn Enter để đăng.